Danh sách câu hỏi

Có 3,464 câu hỏi trên 87 trang

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

Thông tin nào sau đây về thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm là KHÔNG chính xác?

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

“Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” minh họa rõ nhất cho ý nào sau đây?

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

Trong quy trình xử lý RAS nước sẽ lưu chuyển tuần hoàn qua các thiết bị theo thứ tự nào sau đây?

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

Theo đoạn trích, phương án nào sau đây KHÔNG phải là ưu điểm nuôi tôm hùm trên bờ?

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

Ta có thể rút ra điều gì từ đoạn 4?

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

Chị Trần Thị Lưu đã thể hiện thái độ như thế nào khi nói về việc tình trạng ô nhiễm?

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

Ý chính của đoạn 2 là:

1. Dù mang lại lợi nhuận kinh tế cao nhưng nghề nuôi tôm hùm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Để vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ môi trường, các nhà nghiên cứu của Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã nhận chuyển giao và hoàn thiện công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trong bể trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên. 

2. Cũng cần nói rằng đây là dự án nuôi tôm trên bờ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Vì sao vậy? Bởi khác với tôm thẻ, tôm sú hay cua, ghẹ... tôm hùm khó nuôi, chỉ sống và phát triển được ở vùng biển nước sạch, lưu thông thường xuyên, lồng được đặt chìm xuống nước từ 10-20 m để đảm bảo mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Thức ăn của tôm hùm phải tươi, từ cá, cua, ốc... Trung bình, để nuôi được 1 kg tôm hùm, người dân mất khoảng 15 kg thức ăn.

3. “Với hàng triệu con tôm hùm thì thử hỏi có bao nhiêu tấn cua, cá,... đã rải xuống biển và phần không tiêu thụ hết đọng vào các rạn san hô, gây ra ô nhiễm trong vùng biển này” - chị Trần Thị Lưu, cán bộ nghiên cứu của công ty TNHH Đắc Lộc nói. “Bởi vậy, nếu như mấy năm trước, lồng nuôi còn đặt gần bờ thì giờ đây, càng lúc lồng càng được đưa ra xa bờ, tìm đến những vùng nước sạch mới. Nếu đến một ngày, tất cả những vùng biển đều bị ô nhiễm thì người dân có thể nuôi tôm ở đâu?

4. Khi dự án nuôi tôm hùm thương phẩm trên bờ được triển khai, đã có không người dân lắc đầu: “Bởi làm sao mà nuôi được trên bờ, làm sao đảm bảo cho nuớc sạch? Khi mà thời gian phát triển của tôm hùm kéo dài từ 12-18 tháng chứ không phải vài ba tháng như tôm thẻ hay tôm sú”.

5. Nhưng Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã thử nghiệm nuôi tôm hùm trên bề thành công quy mô thương phẩm tạo ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm Việt Nam, giúp kiểm soát được môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, không bị ảnh hưởng thời tiết, dễ dàng trong quá trình vận hành chăm sóc. Thành công này có được do một phần đóng góp lớn của công nghệ tuần hoàn nước RAS mới được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III nội địa hóa sau khi đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới.

6. Để tôm hùm phát triển trong môi trường nhân tạo, yếu tố tiên quyết là nước phải sạch, nhiệt độ ở mức từ 25-30 độ C, độ mặn 28 – 33%, có dòng chảy lưu thông nhu ngoài biển. Vì vậy, hệ thống được thiết kế thành một vòng tuần hoàn với bể nuôi và bể lọc sinh học, đảm bảo nguyên tắc, bể nuôi cao hơn bể lọc. Để có thể là bể xi măng composite hoặc bể nổi (bạt khung sắt). Các thiết bị phụ trợ đi kèm trong hệ tuần hoàn là trống lọc, skimmer... 

7. Chị Trần Thị Lưu mô tả về quy trình xử lý của RAS: “Nước từ bể nuôi đi qua trống lọc, chất bẩn được tách ra còn nước được đẩy sang bể lọc sinh học. Tại đây, các vi sinh vật giúp chuyển hóa chất độc hại có thể gây bệnh cho tôm thành các chất không có hại, ví dụ như chuyển hóa ammoniac sang NO, NO3, skimmer có tác dụng tách các protein lơ lửng còn lại, ...Ở bước cuối cùng, nước sạch được đẩy sang hệ thống làm mát và tia UV để diệt khuẩn, đảm bảo các yếu tố về nhiệt độ, và các chỉ tiêu lý hóa trước khi quay trở lại bể nuôi”. Với mô hình xử lý tuần hoàn như vậy, nước trong bể nuôi được đảm bảo thuận lợi cho tôm hùm phát triển.

8. Sau thời gian nuôi 10 - 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 - 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 45 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m. “Kết quả này giúp chúng tôi mạnh dạn khẳng định có thể triển khai việc nuôi tôm hùm trong bể trên bờ” - chị Trần Thị Lưu nói.

9. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi, thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. “Nếu như nuôi lồng ngoài biển nặng nhọc, chỉ đàn ông mới làm được, do hàng ngày phải lặn sâu xuống nước để kiểm tra, cho ăn, thì với mô hình nuôi trên bờ, ai cũng có thể đảm nhận công việc này” - chị Lưu nói thêm.

10. Cũng trong mô hình này, Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã lần đầu áp dụng loại thức ăn công nghiệp dành cho tôm hùm do TS. Mai Duy Minh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III sản xuất. Thức ăn viên được cho ăn ngày hai lần vào 6-7 giờ và 18-19 giờ với tỉ lệ cho ăn khoảng 2% trọng lượng thân. Do thức ăn chưa hoàn thiện 100% nên mỗi tuần tôm được cho ăn bổ sung hai bữa thức ăn tươi.

11. Nhóm nghiên cứu tại Công ty Đắc Lộc cho rằng, thức ăn viên hoàn toàn phù hợp với mô hình nuôi trong bể trên bờ, vì dễ dàng quan sát và nắm được mức độ ăn của tôm và điều chỉnh cho hợp lý. Trong khi đó, việc đưa thức ăn viên trong môi trường biển tự nhiên khó khả thi do thức ăn dễ dàng tan trong nước và lắng xuống khiến tôm hùm trong lồng khó tiếp cận hơn so với tôm, cua... được cắt miếng to. Điều này góp phần hoàn thiện quy trình nuôi tôm hùm trên bờ.

12. Tính đến tới điểm này, dự án nuôi tôm hùm thương phẩm mà Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc đã thành công bước đầu. Tuy nhiên về đường dài có thể đưa mô hình này vào thực tế và trở thành nghề mới cho người dân Phú Yên và các vùng khác vẫn cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen, tập quán của người dân, nhất là trong điều kiện, chi phí đầu tư ban đầu rất lớn.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Công nghệ nuôi 70 tôm hùm trên bờ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 07/11/2020)

Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Dựa vào nội dung đoạn cuối, chúng ta có thể rút ra điều gì sau đây?

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Phương án nào sau đây không phải là một trong những biện pháp hỗ trợ Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM dành cho nhóm nghiên cứu: 

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Cụm từ “những sản phẩm này” ở đoạn 11 để chỉ?

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Đáp án nào mô tả chính xác các bước sản xuất giấy từ thân cây chuối?

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Nội dung chính của đoạn 8 là gì?

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Vì sao nhóm nghiên cứu chọn sản xuất giấy từ thân cây chuối?

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Theo bài đọc, vì sao nên sử dụng phế phẩm nông nghiệp? Chọn đáp án không được nhắc đến trong bài.

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Theo đoạn 4, mục tiêu của nhóm nghiên cứu là gì?

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Theo bài đọc, 80% phế phẩm chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy là phế phẩm:

1. Từ thân cây chuối bỏ đi, nhóm sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM gồm Trịnh Ngọc Vân Anh, Lê Thị Bích Phượng, Phạm Thái Bình, Trần Út Thương (ngành Môi trường) và Lê Thụy Tường Vân (ngành Quản lý công nghiệp) đã tạo ra loại giấy có thể phân hủy trong một tháng, không dùng chất tẩy hay tạo màu.

2. Trịnh Ngọc Vân Anh, sinh viên năm tư, trưởng nhóm, nhớ lại gần hai năm gắn bó với dự án. Em không ngờ đề tài báo cáo môn “Nghiên cứu các giải pháp môi trường” năm hai đại học lại trở thành ý tưởng khởi nghiệp thực sự và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

3. Sinh ra ở vùng quê Nam Bộ, Vân Anh và các bạn trong nhóm gắn bó với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và chứng kiến nhiều phế phẩm bị bỏ phí. Tìm hiểu rộng ra, nhóm thấy lượng phế phẩm nông nghiệp ở Việt Nam khoảng 60-70 triệu tấn mỗi năm. Trong đó đến 80% chưa được sử dụng, bị thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy.

4. “Làm sao để không lãng phí phế phẩm đó? Làm sao để bảo vệ môi trường? Những câu hỏi liên tiếp khiến các thành viên đầu tư đọc các nghiên cứu, bài báo quốc tế và tìm giải pháp. Khi đọc được nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối, bã mía, nhóm đã xác định đây là hướng đi của mình. Các em bắt đầu lên ý tưởng cho dê tà để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà - những sản phẩm mà ngoài thị trường - "Làm giấy tái chế từ phế phẩm nông nghiệp". Trong đó, giấy được làm ra có thể dùng để sản xuất túi, hộp đựng, giấy gói hoa, quà – những sản phẩm mà ngoài thị trường đa số là nylon, nhựa.

5. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng nhựa tiêu thụ ở Việt Nam bình đầu người tăng từ 3,8 kg năm 1990 lên 41,3 kg vào năm 2018. Lượng nhựa một lần không được tái chế và phải được chôn cất tại Hà Nội và TP HCM lên tới 80 tấn mở ngày. "Sử dụng phế phẩm nông nghiệp bỏ phí để tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm rác thải nhựa, lại tăng thêm thu nhập cho người nông dân thì tại sao không", Vân Anh nói.

6. Từ những ý tưởng ban đầu, Vân Anh và các bạn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới dự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên khoa Công nghệ Hóa học và Thực phẩm. Từ những ý tưởng trên giấy, các em được hỗ trợ làm trong phòng thí nghiệm để tạo ra sản phẩm thật.

7. Sang năm nay, biết tới cuộc thi của WWF nhằm tìm kiếm giải pháp giảm rác thải nhựa cho tỉnh Kiên Giang - một trong những địa phương trồng nhiều chuối nhất cả nước với khoảng 1.540 ha, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu làm giấy từ thân cây chuối trước khi mở rộng sang các loại phế phẩm nông nghiệp khác.

8. Vân Anh chia sẻ cần nhiều công đoạn để làm ra được giấy từ thân cây chuối. Ban đầu, chuối phải được cắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi đem nấu ở nhiệt độ cao cùng một chút soda. Hỗn hợp này sau đó được mang đi rửa để đảm bảo độ trung tính, thân thiện với môi trường, rồi trộn với bột keo - loại làm từ phế phẩm nông nghiệp như khoai bị hư. Sau khi trộn, chúng được trải ra khuôn để tạo hình sản phẩm rồi mang sấy khô hoặc phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng Vân Anh và các bạn đã phải thử nghiệm hàng trăm lần để tạo ra những tờ giấy có độ dai, mềm mại phù hợp để sản xuất túi giấy, túi gói quà hay hộp quà.

9. Nhóm muốn những tờ giấy làm ra phải độc lạ, còn nhiều sợi tơ để thấy rõ tính tự nhiên, khác với các sản phẩm trên thị trường nhưng vẫn phải thân thiện với môi trường, sử dụng ít hóa chất nhất có thể, đảm bảo khả năng phân hủy cao với thời gian lâu nhất chỉ 1-2 tháng. “Đây là điều không dễ dàng và không thể làm một vài lần là được”, Vân Anh khẳng định.

10. Do nhóm hiện chỉ làm thủ công ở quy mô phòng thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, đặc biệt khâu sấy khô sản phẩm. Nhiều hôm, các thành viên phải ở phòng thí nghiệm qua đêm bởi nấu từ sáng đến tối thì hết ánh nắng, không phơi tự nhiên được mà sấy thì phải canh nhiệt độ để giấy không bị giòn, dễ rách.

11. “Sau khi hoàn thiện quy trình sản xuất bằng máy, chúng em muốn chuyển giao công nghệ tới địa phương để tiết kiệm giá thành vận chuyển. Chúng em mong muốn mỗi tỉnh trồng nhiều chuối có một cơ sở sản xuất nhỏ, kiểu như làng nghề, để thu gom thân cây chuối của người nông dân, sản xuất tại đó rồi bán những sản phẩm này”, Vân Anh nói.

12. TS. Hoàng Thị Tuyết Nhung, giảng viên hướng dẫn nhóm Vân Anh thực hiện đề tài, cho biết Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đang có những hỗ trợ rất tốt để nhóm có thể hoàn thiện sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các địa phương. "Vừa rồi, chúng tôi mang sản phẩm đến sự kiện Techfest Vietnam 2020 và được mọi người rất hưởng ứng, trong đó có đại diện hội nông dân các tỉnh. Nhiều người muốn đặt hàng", cô Nhung nói thêm.

(Theo Dương Tâm, Sinh viên làm giấy từ thân cây chuối, Báo VnExpress, ngày 24/12/2020)

Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

Theo Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, điểm đặc biệt của khung năng lực số cho học sinh Việt Nam là gì?

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

Hệ thống “LMS” được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ nhắc đến trong bài đọc là chỉ:

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

Theo bài đọc, đáp án nào dưới đây KHÔNG phải là một trong các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng 4.0?

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

Phương án nào dưới đây là một trong những lĩnh vực đào tạo của UNICEF khuyến khích ngành giáo dục Việt Nam cải thiện?

Chọn đáp án KHÔNG đúng:

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

Theo bài đọc, bà Rana Flowers cho rằng nỗ lực tổ chức dạy học trực tuyến ở Việt Nam trong thời gian qua nhằm mục đích chính là gì? 

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

OECD là:

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

Thái độ của bà Rana Flowers như thế nào khi nói về chuyển đổi số trong giáo dục ở Việt Nam?

1. Việt Nam đang đi đầu về chuyển đổi số, trong đó ngành giáo dục đạt được nhiều thành tựu, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đánh giá. Ngày 15/10, bên lề hội nghị “chuyển đổi kỹ thuật số các hệ thống giáo dục trong ASEAN”, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam, nói thấy ấn tượng trước những nỗ lực và phản ứng nhanh của ngành giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức học tập trực tuyến suốt thời gian bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

2. Hơn 4 tháng triển khai, gần 50% trường đại học tổ chức dạy học trực tuyến. Ở những vùng khó khăn, nhiều thầy cô tổ chức làm video bài giảng gửi lên Youtube, Zalo, Facebook và các ứng dụng khác nhằm tạo cơ hội học tập cho học sinh, thậm chí soạn bài, photo và đến từng nhà gửi bài tập cho các em.

3. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ngày 29/9 cho thấy việc học trực tuyến trong giai đoạn Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ. 79,7% học sinh được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

4. “Tôi rất tự hào về những nỗ lực của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì việc học tập của trẻ em khi trường học đóng cửa”, bà Rana Flowers nói, khẳng định việc nhanh chóng tổ chức dạy học trực tuyến thời gian qua là bằng chứng cho thấy khả năng chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bà đánh giá Việt Nam đang đi trước và đi đầu các quốc gia trong chuyển đổi số.

5. Tuy nhiên, đại diện UNICEF cho rằng ngành giáo dục cần tiếp tục thay đổi, cải cách nhằm đảm bảo mọi trẻ em, mọi người được đi học, được xóa mù công nghệ nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của cuộc cách mạng 4.0 cũng như đảm bảo cho các em được trang bị kỹ năng mới như giao tiếp, xác định vấn đề, giải quyết vấn đề, sự sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm.

6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết một trong những mục tiêu của hệ thống giáo dục Việt Nam là trang bị cho học sinh kỹ năng kỹ thuật số ở tất cả cấp học. Môn Tin học được đưa vào giảng dạy ngay từ bậc Tiểu học, tập trung vào 3 lĩnh vực: kỹ năng số, ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học máy tính, bao gồm các chủ đề mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và người máy.

7. Giáo dục STEM cũng được đẩy mạnh thông qua mô hình học tập dựa dự án và phát triển trung tâm đổi mới trong trường học. Chương trình học không chỉ giới hạn trong việc truyền tải kiến thức mà còn chú trọng đến khả năng tiếp thu, tư duy kỹ thuật số cùng khả năng làm chủ công nghệ của người học.

8. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hành giảng dạy và chia sẻ kiến thức đã sớm được hình thành ở Việt Nam. Ông Nhạ thông tin hiện hơn 7.000 bài học chất lượng cao được chia sẻ trên Internet. “Để chuẩn bị cho chương trình giáo dục mới được triển khai từ năm học này, giáo viên cả nước đã được tập huấn trực tuyến liên tục dựa trên hệ thống LMS”, ông Nhạ nói.

9. Cũng theo ông Nhạ, Việt Nam đang xây dựng khung năng lực số cho học sinh, mầm non đến THPT, trong đó không chỉ coi trọng kỹ năng sử dụng, kiến thức công nghệ mà còn hướng đến năng lực tư duy, khả năng tạo ra sản phẩm sáng tạo và thích ứng với thế giới số.

10. Không chỉ Việt Nam, các nước ASEAN cũng đang cố gắng dạy học sinh các kỹ  năng số. Bộ trưởng Giáo dục các nước ASEAN đã thông qua tuyên bố chung, khẳng định tầm quan trọng của việc xóa mù công nghệ, tăng cường thúc đẩy phát triển kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục.

(Theo Dương Tâm, “Việt Nam được đánh giá cao về chuyển đổi số trong dục”, Báo VnExpress, ngày 15/10/2020)

Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Đáp án nào dưới đây không đúng khi nói về đồ bảo hộ tự sát khuẩn?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Bài học ý nghĩa rút ra từ hành động của Jack: Jack nhiều lần gửi những bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Mesothelin là:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Trong thế chiến thứ Nhất, áo ngực do Mary Phelps Jacob được sử dụng phổ biến bởi nguyên nhân nào dưới đây?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Áo ngực do Mary Phelps Jacob có ưu điểm gì so với áo ngực đầu thế kỉ 20?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Đoạn văn “Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết” minh chứng cho ý kiến gì dưới đây:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Epsicle là:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Ý nào dưới đây không được nhắc đến trong đoạn 1?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Những phát minh của trẻ em làm thay đổi thế giới

1. Chữ nổi

Louis Braille (1809 - 1852) sinh ra tại thị trấn Coupvray, cách thủ đô Paris, Pháp, khoảng 30km về phía Đông. Năm 3 tuổi, ông bị nhiễm trùng mắt dẫn đến mất đi thị lực. Từ đó, Braille theo học tại các trường dành cho trẻ khiếm thị, trẻ khuyết tật.

Louis Braille phát minh ra bảng chữ nổi.

Trong lớp, ông luôn chăm chỉ và phấn đấu học tập. Braille thích đọc sách nhưng ông chỉ được đọc khoảng 14 quyển sách dành cho trẻ khiếm thị. Thời điểm này, trẻ khiếm thị có thể đọc chữ in nổi qua trang giấy ép trên sợi dây đồng, chạm khắc gỗ hoặc cắt chữ trên vải dày rồi khâu lên giấy. Nhưng các em không biết viết. Từ năm 12 tuổi, Braille đã ấp ủ giấc mơ thay thế chữ in nổi bằng ngôn ngữ dành riêng cho trẻ khiếm thị.

Ông mày mò sáng tạo và hoàn thiện bảng chữ nổi Braille vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi. Braille nảy ra ý tưởng từ hệ thống chữ viết 12 chấm do đại uý Charles Barbier sáng tạo, cho phép quân nhân trao đổi ngầm trong quân đội.

Chữ cái trong bảng Braille nằm gọn trong ô chữ nhật đặt dọc, gồm các chấm nổi có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Mỗi ô có 6 chấm. Ba chấm bên trái từ trên xuống lần lượt ký hiệu là chấm 1, chấm 2, chấm 3.

Trong khi ba chấm bên phải từ trên xuống lần lượt là chấm 4, chấm 5, chấm 6. Các chấm trong ô nổi lên theo quy tắc sẽ tương ứng với các chữ cái khác nhau. Chẳng hạn, ô chỉ có chấm 1 là chữ a.

Bảng chữ cái Braille đã trở thành một trong những “cây cầu” kết nối tri thức dành cho người khiếm thị. Chữ Braille được du nhập vào Việt Nam và Việt hóa từ năm 1898.

2. Kem que

Sống tại bang California, Frank Epperson (1894 - 1983) chỉ mới 11 tuổi khi phát minh ra kem que vào năm 1905. Đến nay, kem que đã trở thành món ăn giải nhiệt không thể thiếu vào mùa hè.

Trong một tối mùa đông, Frank nảy ra ý tưởng hoà tan bột soda trong nước và vô tình để quên hỗn hợp qua đêm, với que khuấy vẫn còn trong cốc. Sau một đêm, hỗn hợp đông đặc lại và kem qua ra đời.

Sáng hôm sau, sử dụng que khuấy như tay cầm, Frank từ từ nhấc hỗn hợp ra khỏi cốc và thử liếm nó. Hương vị mát lạnh, kỳ lạ của món ăn mới khiến Frank thích thú và bắt đầu bày bán món ăn này quanh khu phố.

Tuy nhiên, kem que chỉ thực sự nổi tiếng vào năm 1923, khi Frank quyết định mở rộng quy mô bán hàng. Vào mùa hè, Frank bán món ăn này tại công viên giải trí trên bãi biển Neptune. Người dân vô cùng háo hức thưởng thức món ăn độc đáo, mới lạ này.

Trên đà phát triển, năm 1924, Frank đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho kem que, được mô tả là “món kẹo đông lạnh có vẻ ngoài hấp dẫn, có thể dễ dàng thưởng thức mà không bị bẩn bởi tiếp xúc tay trần và không cần đĩa, thìa hay các dụng cụ ăn uống khác”.

Frank đặt tên cho phát minh của mình là Epsicle, được ghép từ tên của ông và từ “icicle” (cột băng). Thời gian đầu, que cầm được làm từ gỗ cây và trang trí bắt mắt. Sau này, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa nhạc pop, Frank đổi tên phát minh thành Popsicle. Đến nay, món ăn này được gọi chung là kem que.

3. Xe trượt tuyết

Mẫu xe trượt tuyết đầu tiên.

Joseph-Armand Bombardier (1907 - 1964) sinh ra tại thành phố Québec, Canada. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tố chất thần đồng khi thường xuyên mày mò sáng chế.

Năm 10 tuổi, Joseph-Armand kết hợp một hộp xì gà cùng chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng để tạo nên mô hình máy kéo hoạt động như bình thường. Lớn lên tại vùng nông thôn phủ đầy tuyết trắng vào mùa đông, Joseph-Armand luôn mơ ước có thể tạo ra thiết bị giúp mọi người lướt đi dễ dàng trên tuyết.

Ông bắt tay vào thiết kế mô hình và chế tạo xe trượt tuyết từ năm 15 tuổi. Xe được kết hợp giữa động cơ ôtô Ford Model T và cánh quạt máy bay bằng gỗ gắn phía sau. Tuy nhiên, vì động cơ cồng kềnh, chiếc xe đầu tiên phát ra những tiếng ồn đinh tai khi ông cùng anh trai chạy thử. Cha Joseph-Armand đã bắt hai anh em dừng lại.

Không nản lòng, Joseph-Armand tìm cách cải thiện và nâng cấp thiết bị di chuyển của mình trong khi kiếm sống bằng nghề sửa xe. Công việc sáng chế được thúc đẩy vào những năm 1930, khi con trai của ông qua đời vì cơn đau ruột thừa nhưng do bão tuyết, gia đình Joseph-Armand không thể đưa con đến bệnh viện.

Cuối cùng, ông đã thành công cải tiến xe trượt tuyết với tốc độ nhanh, hoạt động trơn tru, êm tai và di chuyển trong thời gian dài. Sản phẩm này đã đem lại cuộc cách mạng trong việc di chuyển trên tuyết và đầm lầy.

4. Áo ngực

Vào đầu thế kỷ 20, áo ngực của phụ nữ được thiết kế gây khó chịu, ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của người mặc. Mary Phelps Jacob, khi đó là một thiếu niên sống tại New York, Mỹ, đã quyết tâm thiết kế trang phục thoải mái, ít rườm rà hơn dành cho phụ nữ.

Với sự giúp đỡ của người giúp việc, Mary đã khâu hai chiếc khăn tay bằng lụa làm một. Dây đeo là những dải ruy băng màu hồng. Kết quả, thiếu nữ người Mỹ cho ra đời chiếc áo ngực mềm, nhẹ, phù hợp với vóc dáng và yêu cầu của người phụ nữ so với áo ngực truyền thống. Mary đã may tặng cho bạn bè, người thân và được họ một mực ủng hộ.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ thiết kế của mình, Mary đã đăng ký bằng sáng chế cho kiểu dáng áo ngực mới, đặt tên là “Backless Brassiere”. Sau này, Mary mở cửa hàng bán áo ngực dành cho phụ nữ với tên “Caresse Crosby”.

Áo ngực do Mary thiết kế được sử dụng rộng rãi nhưng chỉ thực sự phổ biến cho đến Thế chiến thứ Nhất, khi chính phủ Mỹ yêu cầu phụ nữ ngừng mua áo ngực có gọng để tiết kiệm kim loại. Khách hàng lập tức chuyển sang sử dụng những chiếc áo ngực kiểu dáng thanh thoát, nhỏ gọn do Mary thiết kế.

Tuy nhiên, thời điểm đó, Mary đã nhượng lại bằng sáng chế cho công ty thời trang Warner Brothers Corset, nơi tiếp tục phát triển và cho ra mắt những mẫu áo ngực thời trang, tân tiến trong 30 năm tiếp tục. Dù chưa từng nhận được giải thưởng cho phát minh của mình, Mary từng bày tỏ cảm thấy tự hào khi thiết kế này giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu phụ nữ theo hướng tích cực.

5. Phương pháp chẩn đoán ung thư

Sinh năm 1997, Jack Andraka đã làm nên tên tuổi trong lĩnh vực y khoa thế giới khi tìm ra phương pháp phát hiện ung thư tuyến tuỵ năm 15 tuổi. Cái chết của một người thân thiết vì ung thư tuyến tuỵ đã thúc đẩy chàng trai trẻ tìm hiểu về các biện pháp phát hiện ung thư sớm.

Bắt tay thực hiện ý tưởng, Jack giống như một tờ giấy trắng, không hiểu khái niệm ung thư tuyến tuỵ là gì. Em phải đọc thông tin, tài liệu rối rắm, khó hiểu về hơn 8.000 loại protein được phát hiện trong ung thư tuyến tuỵ.

Tất cả nguồn tài liệu này do Jack tự tìm hiểu qua Internet. Sau 4.000 lần thử nghiệp, Jack đã tìm ra một loại protein tên là mesothelin, chất chỉ thị sinh học trong bệnh ung thư tuyến tuỵ. Đây là kết quả không tưởng đối với một nam sinh trung học, chưa có bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa.

Phát hiện ra mesothelin, Jack đã gửi 200 bức thư cho các nhà nghiên cứu ung thư tại Trường Đại học John Hopkins đề nghị đưa nghiên cứu vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, chàng trai trẻ bị từ chối 199 lần. Sau rất nhiều nỗ lực cùng thất bại, cuối cùng Jack đã đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến tuỵ vào năm 2012.

60 năm trước đó, y học thế giới vẫn không thể tìm ra cách phát hiện ung thư tuyến tuỵ. Phương pháp của Jack thậm chí có thể phát hiện các loại ung thư khác, bệnh HIV và bệnh lao với chi phí rẻ, phù hợp với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp.

Ngoài nghiên cứu y học, Jack đã tham gia cùng nhiều tổ chức giáo dục, tổ chức dành cho sinh viên để đưa ra lời khuyên, định hướng phát triển và giúp đỡ phát minh của người trẻ.

6. Máy phát hiện nước nhiễm chì

Gitanjali Rao và thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Năm 2020, Gitanjali Rao, 15 tuổi, được tạp chí Time vinh danh là “Thiếu niên của năm” vì sở hữu nhiều phát minh công nghệ trong nhiều lĩnh vực, gồm thiết bị xác định chì trong nước uống, ứng dụng phát hiện bắt nạt trên mạng sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Ngay từ khi còn nhỏ, Gitanjali đã đam mê chế tạo. Em có hơn 8 phát minh, gắn liền với công nghệ.

Ngược trở lại năm 2016, nhiều người dân thị trấn Flint, bang Michigan, Mỹ, bị nhiễm độc do nước nhiễm hàm lượng chì quá cao. Bố mẹ của Gitanjali phải mua que thử để kiểm tra nước. Tuy nhiên, que thử thường xuyên cho ra kết quả không chính xác.

Qua tài liệu khoa học, Gitanjali phát hiện nếu sử dụng sản phẩm nhiễm chì, con người có thể bị nổi mẩn ngứa trên da, đau đầu, nôn mửa, thập chí là tai biến và tử vong. Gitanjali tìm cách loại bỏ chì khỏi nước nhưng dự án này quá khó với cô bé 12 tuổi. Vì vậy, Gitanjali chuyển sang sáng chế thiết bị phát hiện nước nhiễm chì.

Sản phẩm này có thiết kế dựa trên bộ lọc với nguyên liệu là ống nano carbohydrate, clorua, chì axetat. Người dùng có thể kết nối Bluetooth để theo dõi các chỉ số nước qua điện thoại thông minh. Máy phát hiện nước nhiễm chì mang về cho Gitanjali giải thưởng “Nhà khoa học trẻ tuổi hàng đầu nước Mỹ” năm 2017.

7. Đồ bảo hộ tự sát khuẩn

Năm 2014 khi mới 9 tuổi, Mark Leschinsky, sống tại bang New Jersey, Mỹ, đã nhận thức được mối nguy hiểm của dịch bệnh Ebola. Dù mặc đồ bảo hộ, đến 900 nhân viên y tế bị lẫy nhiễm Ebola do những trang phục này không thể diệt trừ vi khuẩn.

Mark nảy ra ý tưởng thiết kế quần áo bảo hộ có khả năng tự khử trùng dành cho nhân viên y tế. Bộ đồ ba lớp. Lớp trong cùng không thể xuyên thủng, lớp ở giữa các chứa các  khi bóp nút ở ống tay áo.

Mark đã dành hàng giờ sau khi tan trường để thiết kế bộ đồ nguyên mẫu. Một trong những thách thức lớn nhất là dung dịch khử trùng phải phù hợp với việc di chuyển và sử dụng trong thời gian dài.

Thiết kế của Mark được Bảo tàng Giáo dục quốc gia, trụ sở tại Ohio, Mỹ, đánh giá cao và tổ chức trưng bày vào năm 2015. Mark đã truyền cảm hứng cho nhiều trẻ em tại Mỹ đam mê và sẵn sàng thực hiện những phát minh độc đáo, có ích cho xã hội.

(Nguồn: khoahoc.tv)

Ý nào dưới đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

STEM và giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

1. STEM là phương pháp giáo dục dành cho mọi đối tượng học sinh. Dù đó là học sinh khuyết tật hay không biết tiếng Anh, hoặc chưa biết đọc mà chỉ biết vẽ. STEM cũng có thể áp dụng cho các em nhỏ khoảng 5-6 tuổi một cách giản dị, thiết thực, thú vị, ở ngay tại nhà hoặc xung quanh nơi ở. Đặc biệt, làm trải nghiệm STEM không giống như làm Toán hay các môn khoa học khác bởi không có đáp án chính xác. Với STEM, mỗi người có một sản phẩm khác nhau. STEM khuyến khích tư duy sáng tạo và phản biện, giúp học sinh học hỏi từ nhau thông qua giao tiếp, trình bày ý kiến, sáng tạo, tư duy…

2. Có hai điểm dễ gây nhầm lẫn trong khái niệm STEM: 1) Kỹ thuật không chỉ là thao tác kỹ thuật, mà còn được hiểu là cả quy trình thực hiện dự án, tức là quy trình giải quyết vấn đề; 2) Công nghệ thường bị mọi người nhầm tưởng rằng phải có máy tính hay thiết bị số mới là công nghệ, mà đôi khi chỉ là việc sử dụng thành thạo các công cụ/thiết bị (dùng kéo cắt hay dùng nhiệt kế đo cũng chính là áp dụng công nghệ). Một vài ví dụ dễ hiểu về STEM chính là cách dạy trẻ em giải quyết những vấn đề thực tế như: làm thế nào để tiết kiệm điện năng, thiết kế lộ trình của ô tô tải thế nào cho hiệu quả kinh tế, xây cái chuồng gà thế nào cho hợp lý, phối hợp quần áo kiểu gì để đỡ hấp nhiệt nhất… Cách hiểu này hoàn toàn phù hợp với nhận định rằng, trẻ em chính là những kỹ sư bẩm sinh, chúng sẽ khám phá và tìm tòi thông qua các hoạt động vui chơi. Nhiệm vụ của người hướng dẫn là định hướng, phản hồi, tổ chức.

3. Thế giới hiện nay đòi hỏi mỗi chúng ta phải có khả năng thích nghi cao, chấp nhận thay đổi bất cứ khi nào và khả năng “đối chọi” với những thay đổi nhanh chóng. Những thay đổi mọi mặt về cuộc sống chỉ trong thời gian ngắn như dịch bệnh bất ngờ trên quy mô toàn cầu khiến cho khả năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng làm việc trong bối cảnh chuyển đổi số, làm việc nhóm… cần hơn bao giờ hết. Những kỹ năng này có thể được tạo lập ngay từ khi còn nhỏ với việc tiếp cận qua những bài học STEM. Một số lợi ích mà STEM mang lại có thể kể đến như sau:

4. Thứ nhất, giáo dục STEM trang bị cho học sinh những kỹ năng sống của công dân trưởng thành trong tương lai. Nó sẽ giúp các em trở thành người có kỹ năng giao tiếp, biết giải quyết vấn đề và có suy nghĩ phản biện - tố chất quan trọng trong mọi mặt của đời sống.

Thứ hai, 4 yếu tố trong STEM (Toán, Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật) là những kiến thức cơ bản của nhân loại từ xa xưa, là nền tảng cho sự phát triển của đời sống con người. Chính vì vậy, giáo dục STEM cũng chính là giáo dục kiến thức cơ bản, nền tảng.

Thứ ba, giáo dục STEM chính là giáo dục về cuộc sống hàng ngày, về cách vận dụng kiến thức trong những bối cảnh thực tiễn để cải thiện đời sống và đặc biệt là để giải quyết vấn đề. Có thể nói, giáo dục STEM chính là cách xây chuồng gà sao cho hữu dụng, làm thế nào để có bữa ăn tối ngon miệng và ai cũng có chỗ ngồi thoải mái quanh bàn ăn, là cách bảo vệ nguồn nước sạch, hay sử dụng nguồn lực một tiết kiệm nhất…

5. Giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

Đầu năm 2001, Tổ chức Khoa học quốc gia của Hoa Kỳ đưa ra cụm từ SMET (viết tắt của các từ: Science - Math - Engineering - Technology) về nhóm nghề nghiệp gồm Khoa học, Toán, Kỹ thuật và Công nghệ. Từ viết tắt này cũng bao gồm những ngành và chương trình học tích hợp kiến thức và kỹ năng của những lĩnh vực trên. Sau đó, cũng trong năm 2001, giáo sư, nhà sinh vật học Judith Ramaley - chủ tịch Hiệp hội các trường đại học/cao đẳng Hoa Kỳ đa sắp xếp lại các chữ cái để đổi từ SMET sang STEM. Từ đó, khái niệm STEM và chương trình học tập trung vào STEM chính thức đến với công chúng rộng rãi. Vượt khỏi biên giới Hoa Kỳ, chương trình STEM được phát triển ở Australia, Vương quốc Anh, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc... Vào đầu những năm 2000, những ngành học tích hợp STEM ngày càng tăng lên, đặc biệt sau sự ra đời của bản báo cáo năm 2005 với tiêu đề: “Vượt khỏi cơn bão đang tới” do Học viện quốc gia Hoa Kỳ về Khoa học, Kỹ thuật và Y khoa công bố. Báo cáo nhấn mạnh mối liên hệ giữa sự thịnh vượng với KH&CN, giữa liên tục cải cách và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội. Báo cáo cũng chỉ ra, trong các nhánh của STEM, học sinh Hoa Kỳ không đạt thành tựu nhanh như học sinh nhiều nước khác. Báo cáo dự đoán những hậu quả khốc liệt khi nước này không có sức cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu do lực lượng lao động yếu kém. Do đó, cần tập trung vào nghiên cứu và giáo dục, đặc biệt là giáo dục STEM đối với học sinh - đây chính là những yếu tố quan trọng để duy trì sự thịnh vượng của Hoa Kỳ.

6. Tháng 11/2009, Tổng thống Hoa Kỳ Obama phát động chiến dịch Giáo dục để cải tiến với mục tiêu đưa học sinh lên vị trí hàng đầu về Toán và Khoa học trong vòng 10 năm. Năm 2010, Tổng thống Obama phát động chương trình “Thay đổi phương trình” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục STEM tại Hoa Kỳ, chương trình này do CEO lãnh đạo các tập đoàn đảm trách. Năm 2014, bài kiểm tra về sự hiểu biết công nghệ và kỹ thuật được áp dụng chọn lọc cho một số học sinh nhằm đánh giá hiểu biết về áp dụng công nghệ, tư duy thiết kế hệ thống trong công nghệ, tác động và ảnh hưởng của công nghệ đối với xã hội. Cũng trong năm 2014, Đạo luật giáo dục STEM ra đời, bổ sung khoa học máy tính vào những lĩnh vực thuộc STEM, đồng thời cung cấp nhiều cơ hội đào tạo nâng cao cho giáo viên. Tháng 4/2016, Nhà trắng ra thông cáo báo chí rằng Hoa Kỳ đã đạt một nửa mục tiêu đào tạo 100.000 giáo viên STEM. Tiếp đó năm 2017, Tổng thống Trump ký đạo luật Truyền cảm hứng, yêu cầu NASA khuyến khích phái nữ tham gia vào những ngành nghề STEM. Cũng trong năm này, Tổng thống Trump phê duyệt ngân sách liên bang dành 200 triệu USD hàng năm cho giáo dục STEM chất lượng cao.

7. Như vậy, có thể khẳng định, Hoa Kỳ là quốc gia khởi nguồn và rất coi trọng giáo dục STEM, tuy nhiên với Hoa Kỳ, giáo dục STEM không xa vời và đắt đỏ. STEM dành cho mọi đối tượng, ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, phục vụ và giải quyết những vấn đề cũng như nhu cầu của thực tiễn, cộng đồng. STEM tại Hoa Kỳ dành cho cả học sinh nam và nữ, đặc biệt những học sinh nữ khi học những ngành liên quan đến STEM sẽ có nhiều cơ hội tìm được tài trợ và học bổng. Ở Hoa Kỳ, nhiều học sinh nữ tìm hiểu về robot, mơ ước được làm lập trình viên, theo học các ngành nghề liên quan STEM. Tại các trại hè STEM, tỷ lệ nam và nữ tham gia là ngang nhau. Nam nữ đều có cơ hội bình đẳng khi được tiếp cận với môn học này.

Chính phủ Hoa Kỳ cũng tạo cơ hội tiếp cận STEM bình đẳng cho mọi đối tượng, bất kể nguồn gốc, thu nhập, hay mức sống. Đặc biệt, những trường thuộc khu vực dân cư có thu nhập thấp thì các nguồn lực, tài nguyên cho việc triển khai STEM lại thường dồi dào hơn. Học sinh ở những trường này có cơ hội tham gia những trại hè STEM miễn phí, hay được ứng tuyển vào những chương trình, khoá học, học bổng STEM… Chính vì được cả hệ thống hỗ trợ nên việc thực hành STEM của các học sinh tại Hoa Kỳ trở nên thường xuyên và phổ biến cả ở trường và ở nhà. Các em được giáo dục STEM là một phần của cuộc sống và giúp cải thiện cuộc sống hàng ngày.

8. Để triển khai chương trình STEM, Hoa Kỳ có các mô hình: 1) Trường chuyên STEM (đây là mô hình có cấp độ cao và hoàn thiện nhất, toàn bộ chương trình học được chia thành các dự án với sự hợp tác cao độ giữa tất cả các giáo viên trong trường để đảm bảo chương trình học đúng nội dung của các dự án); 2) Trường có chứng chỉ STEM (đây là cấp độ 2, đạt các tiêu chuẩn nhất định như số lượng giáo viên có chứng chỉ dạy STEM, số giờ học và tiết học theo phương pháp STEM…); 3) Trường có STEM (đây là cấp độ 3, STEM được triển khai như một môn học phụ); 4) Trường có các câu lạc bộ liên quan đến STEM (đây là cấp độ thấp nhất, thường là những trường có những câu lạc bộ như robotic, coding…).  Chính vì sự phổ biến của giáo dục STEM, nên Hoa Kỳ có ngày STEM toàn quốc, ngày 8/11.

(Nguồn: ThS Đinh Thu Hồng; Tạp chí Khoa học và Công nghệ)

Ai là người đã phát động chương trình “Thay đổi phương trình” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục STEM tại Hoa Kỳ?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

STEM và giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

1. STEM là phương pháp giáo dục dành cho mọi đối tượng học sinh. Dù đó là học sinh khuyết tật hay không biết tiếng Anh, hoặc chưa biết đọc mà chỉ biết vẽ. STEM cũng có thể áp dụng cho các em nhỏ khoảng 5-6 tuổi một cách giản dị, thiết thực, thú vị, ở ngay tại nhà hoặc xung quanh nơi ở. Đặc biệt, làm trải nghiệm STEM không giống như làm Toán hay các môn khoa học khác bởi không có đáp án chính xác. Với STEM, mỗi người có một sản phẩm khác nhau. STEM khuyến khích tư duy sáng tạo và phản biện, giúp học sinh học hỏi từ nhau thông qua giao tiếp, trình bày ý kiến, sáng tạo, tư duy…

2. Có hai điểm dễ gây nhầm lẫn trong khái niệm STEM: 1) Kỹ thuật không chỉ là thao tác kỹ thuật, mà còn được hiểu là cả quy trình thực hiện dự án, tức là quy trình giải quyết vấn đề; 2) Công nghệ thường bị mọi người nhầm tưởng rằng phải có máy tính hay thiết bị số mới là công nghệ, mà đôi khi chỉ là việc sử dụng thành thạo các công cụ/thiết bị (dùng kéo cắt hay dùng nhiệt kế đo cũng chính là áp dụng công nghệ). Một vài ví dụ dễ hiểu về STEM chính là cách dạy trẻ em giải quyết những vấn đề thực tế như: làm thế nào để tiết kiệm điện năng, thiết kế lộ trình của ô tô tải thế nào cho hiệu quả kinh tế, xây cái chuồng gà thế nào cho hợp lý, phối hợp quần áo kiểu gì để đỡ hấp nhiệt nhất… Cách hiểu này hoàn toàn phù hợp với nhận định rằng, trẻ em chính là những kỹ sư bẩm sinh, chúng sẽ khám phá và tìm tòi thông qua các hoạt động vui chơi. Nhiệm vụ của người hướng dẫn là định hướng, phản hồi, tổ chức.

3. Thế giới hiện nay đòi hỏi mỗi chúng ta phải có khả năng thích nghi cao, chấp nhận thay đổi bất cứ khi nào và khả năng “đối chọi” với những thay đổi nhanh chóng. Những thay đổi mọi mặt về cuộc sống chỉ trong thời gian ngắn như dịch bệnh bất ngờ trên quy mô toàn cầu khiến cho khả năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng làm việc trong bối cảnh chuyển đổi số, làm việc nhóm… cần hơn bao giờ hết. Những kỹ năng này có thể được tạo lập ngay từ khi còn nhỏ với việc tiếp cận qua những bài học STEM. Một số lợi ích mà STEM mang lại có thể kể đến như sau:

4. Thứ nhất, giáo dục STEM trang bị cho học sinh những kỹ năng sống của công dân trưởng thành trong tương lai. Nó sẽ giúp các em trở thành người có kỹ năng giao tiếp, biết giải quyết vấn đề và có suy nghĩ phản biện - tố chất quan trọng trong mọi mặt của đời sống.

Thứ hai, 4 yếu tố trong STEM (Toán, Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật) là những kiến thức cơ bản của nhân loại từ xa xưa, là nền tảng cho sự phát triển của đời sống con người. Chính vì vậy, giáo dục STEM cũng chính là giáo dục kiến thức cơ bản, nền tảng.

Thứ ba, giáo dục STEM chính là giáo dục về cuộc sống hàng ngày, về cách vận dụng kiến thức trong những bối cảnh thực tiễn để cải thiện đời sống và đặc biệt là để giải quyết vấn đề. Có thể nói, giáo dục STEM chính là cách xây chuồng gà sao cho hữu dụng, làm thế nào để có bữa ăn tối ngon miệng và ai cũng có chỗ ngồi thoải mái quanh bàn ăn, là cách bảo vệ nguồn nước sạch, hay sử dụng nguồn lực một tiết kiệm nhất…

5. Giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

Đầu năm 2001, Tổ chức Khoa học quốc gia của Hoa Kỳ đưa ra cụm từ SMET (viết tắt của các từ: Science - Math - Engineering - Technology) về nhóm nghề nghiệp gồm Khoa học, Toán, Kỹ thuật và Công nghệ. Từ viết tắt này cũng bao gồm những ngành và chương trình học tích hợp kiến thức và kỹ năng của những lĩnh vực trên. Sau đó, cũng trong năm 2001, giáo sư, nhà sinh vật học Judith Ramaley - chủ tịch Hiệp hội các trường đại học/cao đẳng Hoa Kỳ đa sắp xếp lại các chữ cái để đổi từ SMET sang STEM. Từ đó, khái niệm STEM và chương trình học tập trung vào STEM chính thức đến với công chúng rộng rãi. Vượt khỏi biên giới Hoa Kỳ, chương trình STEM được phát triển ở Australia, Vương quốc Anh, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc... Vào đầu những năm 2000, những ngành học tích hợp STEM ngày càng tăng lên, đặc biệt sau sự ra đời của bản báo cáo năm 2005 với tiêu đề: “Vượt khỏi cơn bão đang tới” do Học viện quốc gia Hoa Kỳ về Khoa học, Kỹ thuật và Y khoa công bố. Báo cáo nhấn mạnh mối liên hệ giữa sự thịnh vượng với KH&CN, giữa liên tục cải cách và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội. Báo cáo cũng chỉ ra, trong các nhánh của STEM, học sinh Hoa Kỳ không đạt thành tựu nhanh như học sinh nhiều nước khác. Báo cáo dự đoán những hậu quả khốc liệt khi nước này không có sức cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu do lực lượng lao động yếu kém. Do đó, cần tập trung vào nghiên cứu và giáo dục, đặc biệt là giáo dục STEM đối với học sinh - đây chính là những yếu tố quan trọng để duy trì sự thịnh vượng của Hoa Kỳ.

6. Tháng 11/2009, Tổng thống Hoa Kỳ Obama phát động chiến dịch Giáo dục để cải tiến với mục tiêu đưa học sinh lên vị trí hàng đầu về Toán và Khoa học trong vòng 10 năm. Năm 2010, Tổng thống Obama phát động chương trình “Thay đổi phương trình” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục STEM tại Hoa Kỳ, chương trình này do CEO lãnh đạo các tập đoàn đảm trách. Năm 2014, bài kiểm tra về sự hiểu biết công nghệ và kỹ thuật được áp dụng chọn lọc cho một số học sinh nhằm đánh giá hiểu biết về áp dụng công nghệ, tư duy thiết kế hệ thống trong công nghệ, tác động và ảnh hưởng của công nghệ đối với xã hội. Cũng trong năm 2014, Đạo luật giáo dục STEM ra đời, bổ sung khoa học máy tính vào những lĩnh vực thuộc STEM, đồng thời cung cấp nhiều cơ hội đào tạo nâng cao cho giáo viên. Tháng 4/2016, Nhà trắng ra thông cáo báo chí rằng Hoa Kỳ đã đạt một nửa mục tiêu đào tạo 100.000 giáo viên STEM. Tiếp đó năm 2017, Tổng thống Trump ký đạo luật Truyền cảm hứng, yêu cầu NASA khuyến khích phái nữ tham gia vào những ngành nghề STEM. Cũng trong năm này, Tổng thống Trump phê duyệt ngân sách liên bang dành 200 triệu USD hàng năm cho giáo dục STEM chất lượng cao.

7. Như vậy, có thể khẳng định, Hoa Kỳ là quốc gia khởi nguồn và rất coi trọng giáo dục STEM, tuy nhiên với Hoa Kỳ, giáo dục STEM không xa vời và đắt đỏ. STEM dành cho mọi đối tượng, ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, phục vụ và giải quyết những vấn đề cũng như nhu cầu của thực tiễn, cộng đồng. STEM tại Hoa Kỳ dành cho cả học sinh nam và nữ, đặc biệt những học sinh nữ khi học những ngành liên quan đến STEM sẽ có nhiều cơ hội tìm được tài trợ và học bổng. Ở Hoa Kỳ, nhiều học sinh nữ tìm hiểu về robot, mơ ước được làm lập trình viên, theo học các ngành nghề liên quan STEM. Tại các trại hè STEM, tỷ lệ nam và nữ tham gia là ngang nhau. Nam nữ đều có cơ hội bình đẳng khi được tiếp cận với môn học này.

Chính phủ Hoa Kỳ cũng tạo cơ hội tiếp cận STEM bình đẳng cho mọi đối tượng, bất kể nguồn gốc, thu nhập, hay mức sống. Đặc biệt, những trường thuộc khu vực dân cư có thu nhập thấp thì các nguồn lực, tài nguyên cho việc triển khai STEM lại thường dồi dào hơn. Học sinh ở những trường này có cơ hội tham gia những trại hè STEM miễn phí, hay được ứng tuyển vào những chương trình, khoá học, học bổng STEM… Chính vì được cả hệ thống hỗ trợ nên việc thực hành STEM của các học sinh tại Hoa Kỳ trở nên thường xuyên và phổ biến cả ở trường và ở nhà. Các em được giáo dục STEM là một phần của cuộc sống và giúp cải thiện cuộc sống hàng ngày.

8. Để triển khai chương trình STEM, Hoa Kỳ có các mô hình: 1) Trường chuyên STEM (đây là mô hình có cấp độ cao và hoàn thiện nhất, toàn bộ chương trình học được chia thành các dự án với sự hợp tác cao độ giữa tất cả các giáo viên trong trường để đảm bảo chương trình học đúng nội dung của các dự án); 2) Trường có chứng chỉ STEM (đây là cấp độ 2, đạt các tiêu chuẩn nhất định như số lượng giáo viên có chứng chỉ dạy STEM, số giờ học và tiết học theo phương pháp STEM…); 3) Trường có STEM (đây là cấp độ 3, STEM được triển khai như một môn học phụ); 4) Trường có các câu lạc bộ liên quan đến STEM (đây là cấp độ thấp nhất, thường là những trường có những câu lạc bộ như robotic, coding…).  Chính vì sự phổ biến của giáo dục STEM, nên Hoa Kỳ có ngày STEM toàn quốc, ngày 8/11.

(Nguồn: ThS Đinh Thu Hồng; Tạp chí Khoa học và Công nghệ)

Văn bản nêu lên mấy điểm dễ nhầm lẫn trongkhái niệm STEM?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

STEM và giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

1. STEM là phương pháp giáo dục dành cho mọi đối tượng học sinh. Dù đó là học sinh khuyết tật hay không biết tiếng Anh, hoặc chưa biết đọc mà chỉ biết vẽ. STEM cũng có thể áp dụng cho các em nhỏ khoảng 5-6 tuổi một cách giản dị, thiết thực, thú vị, ở ngay tại nhà hoặc xung quanh nơi ở. Đặc biệt, làm trải nghiệm STEM không giống như làm Toán hay các môn khoa học khác bởi không có đáp án chính xác. Với STEM, mỗi người có một sản phẩm khác nhau. STEM khuyến khích tư duy sáng tạo và phản biện, giúp học sinh học hỏi từ nhau thông qua giao tiếp, trình bày ý kiến, sáng tạo, tư duy…

2. Có hai điểm dễ gây nhầm lẫn trong khái niệm STEM: 1) Kỹ thuật không chỉ là thao tác kỹ thuật, mà còn được hiểu là cả quy trình thực hiện dự án, tức là quy trình giải quyết vấn đề; 2) Công nghệ thường bị mọi người nhầm tưởng rằng phải có máy tính hay thiết bị số mới là công nghệ, mà đôi khi chỉ là việc sử dụng thành thạo các công cụ/thiết bị (dùng kéo cắt hay dùng nhiệt kế đo cũng chính là áp dụng công nghệ). Một vài ví dụ dễ hiểu về STEM chính là cách dạy trẻ em giải quyết những vấn đề thực tế như: làm thế nào để tiết kiệm điện năng, thiết kế lộ trình của ô tô tải thế nào cho hiệu quả kinh tế, xây cái chuồng gà thế nào cho hợp lý, phối hợp quần áo kiểu gì để đỡ hấp nhiệt nhất… Cách hiểu này hoàn toàn phù hợp với nhận định rằng, trẻ em chính là những kỹ sư bẩm sinh, chúng sẽ khám phá và tìm tòi thông qua các hoạt động vui chơi. Nhiệm vụ của người hướng dẫn là định hướng, phản hồi, tổ chức.

3. Thế giới hiện nay đòi hỏi mỗi chúng ta phải có khả năng thích nghi cao, chấp nhận thay đổi bất cứ khi nào và khả năng “đối chọi” với những thay đổi nhanh chóng. Những thay đổi mọi mặt về cuộc sống chỉ trong thời gian ngắn như dịch bệnh bất ngờ trên quy mô toàn cầu khiến cho khả năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng làm việc trong bối cảnh chuyển đổi số, làm việc nhóm… cần hơn bao giờ hết. Những kỹ năng này có thể được tạo lập ngay từ khi còn nhỏ với việc tiếp cận qua những bài học STEM. Một số lợi ích mà STEM mang lại có thể kể đến như sau:

4. Thứ nhất, giáo dục STEM trang bị cho học sinh những kỹ năng sống của công dân trưởng thành trong tương lai. Nó sẽ giúp các em trở thành người có kỹ năng giao tiếp, biết giải quyết vấn đề và có suy nghĩ phản biện - tố chất quan trọng trong mọi mặt của đời sống.

Thứ hai, 4 yếu tố trong STEM (Toán, Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật) là những kiến thức cơ bản của nhân loại từ xa xưa, là nền tảng cho sự phát triển của đời sống con người. Chính vì vậy, giáo dục STEM cũng chính là giáo dục kiến thức cơ bản, nền tảng.

Thứ ba, giáo dục STEM chính là giáo dục về cuộc sống hàng ngày, về cách vận dụng kiến thức trong những bối cảnh thực tiễn để cải thiện đời sống và đặc biệt là để giải quyết vấn đề. Có thể nói, giáo dục STEM chính là cách xây chuồng gà sao cho hữu dụng, làm thế nào để có bữa ăn tối ngon miệng và ai cũng có chỗ ngồi thoải mái quanh bàn ăn, là cách bảo vệ nguồn nước sạch, hay sử dụng nguồn lực một tiết kiệm nhất…

5. Giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

Đầu năm 2001, Tổ chức Khoa học quốc gia của Hoa Kỳ đưa ra cụm từ SMET (viết tắt của các từ: Science - Math - Engineering - Technology) về nhóm nghề nghiệp gồm Khoa học, Toán, Kỹ thuật và Công nghệ. Từ viết tắt này cũng bao gồm những ngành và chương trình học tích hợp kiến thức và kỹ năng của những lĩnh vực trên. Sau đó, cũng trong năm 2001, giáo sư, nhà sinh vật học Judith Ramaley - chủ tịch Hiệp hội các trường đại học/cao đẳng Hoa Kỳ đa sắp xếp lại các chữ cái để đổi từ SMET sang STEM. Từ đó, khái niệm STEM và chương trình học tập trung vào STEM chính thức đến với công chúng rộng rãi. Vượt khỏi biên giới Hoa Kỳ, chương trình STEM được phát triển ở Australia, Vương quốc Anh, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc... Vào đầu những năm 2000, những ngành học tích hợp STEM ngày càng tăng lên, đặc biệt sau sự ra đời của bản báo cáo năm 2005 với tiêu đề: “Vượt khỏi cơn bão đang tới” do Học viện quốc gia Hoa Kỳ về Khoa học, Kỹ thuật và Y khoa công bố. Báo cáo nhấn mạnh mối liên hệ giữa sự thịnh vượng với KH&CN, giữa liên tục cải cách và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội. Báo cáo cũng chỉ ra, trong các nhánh của STEM, học sinh Hoa Kỳ không đạt thành tựu nhanh như học sinh nhiều nước khác. Báo cáo dự đoán những hậu quả khốc liệt khi nước này không có sức cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu do lực lượng lao động yếu kém. Do đó, cần tập trung vào nghiên cứu và giáo dục, đặc biệt là giáo dục STEM đối với học sinh - đây chính là những yếu tố quan trọng để duy trì sự thịnh vượng của Hoa Kỳ.

6. Tháng 11/2009, Tổng thống Hoa Kỳ Obama phát động chiến dịch Giáo dục để cải tiến với mục tiêu đưa học sinh lên vị trí hàng đầu về Toán và Khoa học trong vòng 10 năm. Năm 2010, Tổng thống Obama phát động chương trình “Thay đổi phương trình” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục STEM tại Hoa Kỳ, chương trình này do CEO lãnh đạo các tập đoàn đảm trách. Năm 2014, bài kiểm tra về sự hiểu biết công nghệ và kỹ thuật được áp dụng chọn lọc cho một số học sinh nhằm đánh giá hiểu biết về áp dụng công nghệ, tư duy thiết kế hệ thống trong công nghệ, tác động và ảnh hưởng của công nghệ đối với xã hội. Cũng trong năm 2014, Đạo luật giáo dục STEM ra đời, bổ sung khoa học máy tính vào những lĩnh vực thuộc STEM, đồng thời cung cấp nhiều cơ hội đào tạo nâng cao cho giáo viên. Tháng 4/2016, Nhà trắng ra thông cáo báo chí rằng Hoa Kỳ đã đạt một nửa mục tiêu đào tạo 100.000 giáo viên STEM. Tiếp đó năm 2017, Tổng thống Trump ký đạo luật Truyền cảm hứng, yêu cầu NASA khuyến khích phái nữ tham gia vào những ngành nghề STEM. Cũng trong năm này, Tổng thống Trump phê duyệt ngân sách liên bang dành 200 triệu USD hàng năm cho giáo dục STEM chất lượng cao.

7. Như vậy, có thể khẳng định, Hoa Kỳ là quốc gia khởi nguồn và rất coi trọng giáo dục STEM, tuy nhiên với Hoa Kỳ, giáo dục STEM không xa vời và đắt đỏ. STEM dành cho mọi đối tượng, ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, phục vụ và giải quyết những vấn đề cũng như nhu cầu của thực tiễn, cộng đồng. STEM tại Hoa Kỳ dành cho cả học sinh nam và nữ, đặc biệt những học sinh nữ khi học những ngành liên quan đến STEM sẽ có nhiều cơ hội tìm được tài trợ và học bổng. Ở Hoa Kỳ, nhiều học sinh nữ tìm hiểu về robot, mơ ước được làm lập trình viên, theo học các ngành nghề liên quan STEM. Tại các trại hè STEM, tỷ lệ nam và nữ tham gia là ngang nhau. Nam nữ đều có cơ hội bình đẳng khi được tiếp cận với môn học này.

Chính phủ Hoa Kỳ cũng tạo cơ hội tiếp cận STEM bình đẳng cho mọi đối tượng, bất kể nguồn gốc, thu nhập, hay mức sống. Đặc biệt, những trường thuộc khu vực dân cư có thu nhập thấp thì các nguồn lực, tài nguyên cho việc triển khai STEM lại thường dồi dào hơn. Học sinh ở những trường này có cơ hội tham gia những trại hè STEM miễn phí, hay được ứng tuyển vào những chương trình, khoá học, học bổng STEM… Chính vì được cả hệ thống hỗ trợ nên việc thực hành STEM của các học sinh tại Hoa Kỳ trở nên thường xuyên và phổ biến cả ở trường và ở nhà. Các em được giáo dục STEM là một phần của cuộc sống và giúp cải thiện cuộc sống hàng ngày.

8. Để triển khai chương trình STEM, Hoa Kỳ có các mô hình: 1) Trường chuyên STEM (đây là mô hình có cấp độ cao và hoàn thiện nhất, toàn bộ chương trình học được chia thành các dự án với sự hợp tác cao độ giữa tất cả các giáo viên trong trường để đảm bảo chương trình học đúng nội dung của các dự án); 2) Trường có chứng chỉ STEM (đây là cấp độ 2, đạt các tiêu chuẩn nhất định như số lượng giáo viên có chứng chỉ dạy STEM, số giờ học và tiết học theo phương pháp STEM…); 3) Trường có STEM (đây là cấp độ 3, STEM được triển khai như một môn học phụ); 4) Trường có các câu lạc bộ liên quan đến STEM (đây là cấp độ thấp nhất, thường là những trường có những câu lạc bộ như robotic, coding…).  Chính vì sự phổ biến của giáo dục STEM, nên Hoa Kỳ có ngày STEM toàn quốc, ngày 8/11.

(Nguồn: ThS Đinh Thu Hồng; Tạp chí Khoa học và Công nghệ)

Ngày STEM toàn quốc của Hoa Kỳ là ngày nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

STEM và giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

1. STEM là phương pháp giáo dục dành cho mọi đối tượng học sinh. Dù đó là học sinh khuyết tật hay không biết tiếng Anh, hoặc chưa biết đọc mà chỉ biết vẽ. STEM cũng có thể áp dụng cho các em nhỏ khoảng 5-6 tuổi một cách giản dị, thiết thực, thú vị, ở ngay tại nhà hoặc xung quanh nơi ở. Đặc biệt, làm trải nghiệm STEM không giống như làm Toán hay các môn khoa học khác bởi không có đáp án chính xác. Với STEM, mỗi người có một sản phẩm khác nhau. STEM khuyến khích tư duy sáng tạo và phản biện, giúp học sinh học hỏi từ nhau thông qua giao tiếp, trình bày ý kiến, sáng tạo, tư duy…

2. Có hai điểm dễ gây nhầm lẫn trong khái niệm STEM: 1) Kỹ thuật không chỉ là thao tác kỹ thuật, mà còn được hiểu là cả quy trình thực hiện dự án, tức là quy trình giải quyết vấn đề; 2) Công nghệ thường bị mọi người nhầm tưởng rằng phải có máy tính hay thiết bị số mới là công nghệ, mà đôi khi chỉ là việc sử dụng thành thạo các công cụ/thiết bị (dùng kéo cắt hay dùng nhiệt kế đo cũng chính là áp dụng công nghệ). Một vài ví dụ dễ hiểu về STEM chính là cách dạy trẻ em giải quyết những vấn đề thực tế như: làm thế nào để tiết kiệm điện năng, thiết kế lộ trình của ô tô tải thế nào cho hiệu quả kinh tế, xây cái chuồng gà thế nào cho hợp lý, phối hợp quần áo kiểu gì để đỡ hấp nhiệt nhất… Cách hiểu này hoàn toàn phù hợp với nhận định rằng, trẻ em chính là những kỹ sư bẩm sinh, chúng sẽ khám phá và tìm tòi thông qua các hoạt động vui chơi. Nhiệm vụ của người hướng dẫn là định hướng, phản hồi, tổ chức.

3. Thế giới hiện nay đòi hỏi mỗi chúng ta phải có khả năng thích nghi cao, chấp nhận thay đổi bất cứ khi nào và khả năng “đối chọi” với những thay đổi nhanh chóng. Những thay đổi mọi mặt về cuộc sống chỉ trong thời gian ngắn như dịch bệnh bất ngờ trên quy mô toàn cầu khiến cho khả năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng làm việc trong bối cảnh chuyển đổi số, làm việc nhóm… cần hơn bao giờ hết. Những kỹ năng này có thể được tạo lập ngay từ khi còn nhỏ với việc tiếp cận qua những bài học STEM. Một số lợi ích mà STEM mang lại có thể kể đến như sau:

4. Thứ nhất, giáo dục STEM trang bị cho học sinh những kỹ năng sống của công dân trưởng thành trong tương lai. Nó sẽ giúp các em trở thành người có kỹ năng giao tiếp, biết giải quyết vấn đề và có suy nghĩ phản biện - tố chất quan trọng trong mọi mặt của đời sống.

Thứ hai, 4 yếu tố trong STEM (Toán, Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật) là những kiến thức cơ bản của nhân loại từ xa xưa, là nền tảng cho sự phát triển của đời sống con người. Chính vì vậy, giáo dục STEM cũng chính là giáo dục kiến thức cơ bản, nền tảng.

Thứ ba, giáo dục STEM chính là giáo dục về cuộc sống hàng ngày, về cách vận dụng kiến thức trong những bối cảnh thực tiễn để cải thiện đời sống và đặc biệt là để giải quyết vấn đề. Có thể nói, giáo dục STEM chính là cách xây chuồng gà sao cho hữu dụng, làm thế nào để có bữa ăn tối ngon miệng và ai cũng có chỗ ngồi thoải mái quanh bàn ăn, là cách bảo vệ nguồn nước sạch, hay sử dụng nguồn lực một tiết kiệm nhất…

5. Giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

Đầu năm 2001, Tổ chức Khoa học quốc gia của Hoa Kỳ đưa ra cụm từ SMET (viết tắt của các từ: Science - Math - Engineering - Technology) về nhóm nghề nghiệp gồm Khoa học, Toán, Kỹ thuật và Công nghệ. Từ viết tắt này cũng bao gồm những ngành và chương trình học tích hợp kiến thức và kỹ năng của những lĩnh vực trên. Sau đó, cũng trong năm 2001, giáo sư, nhà sinh vật học Judith Ramaley - chủ tịch Hiệp hội các trường đại học/cao đẳng Hoa Kỳ đa sắp xếp lại các chữ cái để đổi từ SMET sang STEM. Từ đó, khái niệm STEM và chương trình học tập trung vào STEM chính thức đến với công chúng rộng rãi. Vượt khỏi biên giới Hoa Kỳ, chương trình STEM được phát triển ở Australia, Vương quốc Anh, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc... Vào đầu những năm 2000, những ngành học tích hợp STEM ngày càng tăng lên, đặc biệt sau sự ra đời của bản báo cáo năm 2005 với tiêu đề: “Vượt khỏi cơn bão đang tới” do Học viện quốc gia Hoa Kỳ về Khoa học, Kỹ thuật và Y khoa công bố. Báo cáo nhấn mạnh mối liên hệ giữa sự thịnh vượng với KH&CN, giữa liên tục cải cách và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội. Báo cáo cũng chỉ ra, trong các nhánh của STEM, học sinh Hoa Kỳ không đạt thành tựu nhanh như học sinh nhiều nước khác. Báo cáo dự đoán những hậu quả khốc liệt khi nước này không có sức cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu do lực lượng lao động yếu kém. Do đó, cần tập trung vào nghiên cứu và giáo dục, đặc biệt là giáo dục STEM đối với học sinh - đây chính là những yếu tố quan trọng để duy trì sự thịnh vượng của Hoa Kỳ.

6. Tháng 11/2009, Tổng thống Hoa Kỳ Obama phát động chiến dịch Giáo dục để cải tiến với mục tiêu đưa học sinh lên vị trí hàng đầu về Toán và Khoa học trong vòng 10 năm. Năm 2010, Tổng thống Obama phát động chương trình “Thay đổi phương trình” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục STEM tại Hoa Kỳ, chương trình này do CEO lãnh đạo các tập đoàn đảm trách. Năm 2014, bài kiểm tra về sự hiểu biết công nghệ và kỹ thuật được áp dụng chọn lọc cho một số học sinh nhằm đánh giá hiểu biết về áp dụng công nghệ, tư duy thiết kế hệ thống trong công nghệ, tác động và ảnh hưởng của công nghệ đối với xã hội. Cũng trong năm 2014, Đạo luật giáo dục STEM ra đời, bổ sung khoa học máy tính vào những lĩnh vực thuộc STEM, đồng thời cung cấp nhiều cơ hội đào tạo nâng cao cho giáo viên. Tháng 4/2016, Nhà trắng ra thông cáo báo chí rằng Hoa Kỳ đã đạt một nửa mục tiêu đào tạo 100.000 giáo viên STEM. Tiếp đó năm 2017, Tổng thống Trump ký đạo luật Truyền cảm hứng, yêu cầu NASA khuyến khích phái nữ tham gia vào những ngành nghề STEM. Cũng trong năm này, Tổng thống Trump phê duyệt ngân sách liên bang dành 200 triệu USD hàng năm cho giáo dục STEM chất lượng cao.

7. Như vậy, có thể khẳng định, Hoa Kỳ là quốc gia khởi nguồn và rất coi trọng giáo dục STEM, tuy nhiên với Hoa Kỳ, giáo dục STEM không xa vời và đắt đỏ. STEM dành cho mọi đối tượng, ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, phục vụ và giải quyết những vấn đề cũng như nhu cầu của thực tiễn, cộng đồng. STEM tại Hoa Kỳ dành cho cả học sinh nam và nữ, đặc biệt những học sinh nữ khi học những ngành liên quan đến STEM sẽ có nhiều cơ hội tìm được tài trợ và học bổng. Ở Hoa Kỳ, nhiều học sinh nữ tìm hiểu về robot, mơ ước được làm lập trình viên, theo học các ngành nghề liên quan STEM. Tại các trại hè STEM, tỷ lệ nam và nữ tham gia là ngang nhau. Nam nữ đều có cơ hội bình đẳng khi được tiếp cận với môn học này.

Chính phủ Hoa Kỳ cũng tạo cơ hội tiếp cận STEM bình đẳng cho mọi đối tượng, bất kể nguồn gốc, thu nhập, hay mức sống. Đặc biệt, những trường thuộc khu vực dân cư có thu nhập thấp thì các nguồn lực, tài nguyên cho việc triển khai STEM lại thường dồi dào hơn. Học sinh ở những trường này có cơ hội tham gia những trại hè STEM miễn phí, hay được ứng tuyển vào những chương trình, khoá học, học bổng STEM… Chính vì được cả hệ thống hỗ trợ nên việc thực hành STEM của các học sinh tại Hoa Kỳ trở nên thường xuyên và phổ biến cả ở trường và ở nhà. Các em được giáo dục STEM là một phần của cuộc sống và giúp cải thiện cuộc sống hàng ngày.

8. Để triển khai chương trình STEM, Hoa Kỳ có các mô hình: 1) Trường chuyên STEM (đây là mô hình có cấp độ cao và hoàn thiện nhất, toàn bộ chương trình học được chia thành các dự án với sự hợp tác cao độ giữa tất cả các giáo viên trong trường để đảm bảo chương trình học đúng nội dung của các dự án); 2) Trường có chứng chỉ STEM (đây là cấp độ 2, đạt các tiêu chuẩn nhất định như số lượng giáo viên có chứng chỉ dạy STEM, số giờ học và tiết học theo phương pháp STEM…); 3) Trường có STEM (đây là cấp độ 3, STEM được triển khai như một môn học phụ); 4) Trường có các câu lạc bộ liên quan đến STEM (đây là cấp độ thấp nhất, thường là những trường có những câu lạc bộ như robotic, coding…).  Chính vì sự phổ biến của giáo dục STEM, nên Hoa Kỳ có ngày STEM toàn quốc, ngày 8/11.

(Nguồn: ThS Đinh Thu Hồng; Tạp chí Khoa học và Công nghệ)

Một trong những yếu quan trọng để duy trì sự thịnh vượng của Hoa Kỳ được tác giả nhắc đến trong bài gì yếu tố nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

STEM và giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

1. STEM là phương pháp giáo dục dành cho mọi đối tượng học sinh. Dù đó là học sinh khuyết tật hay không biết tiếng Anh, hoặc chưa biết đọc mà chỉ biết vẽ. STEM cũng có thể áp dụng cho các em nhỏ khoảng 5-6 tuổi một cách giản dị, thiết thực, thú vị, ở ngay tại nhà hoặc xung quanh nơi ở. Đặc biệt, làm trải nghiệm STEM không giống như làm Toán hay các môn khoa học khác bởi không có đáp án chính xác. Với STEM, mỗi người có một sản phẩm khác nhau. STEM khuyến khích tư duy sáng tạo và phản biện, giúp học sinh học hỏi từ nhau thông qua giao tiếp, trình bày ý kiến, sáng tạo, tư duy…

2. Có hai điểm dễ gây nhầm lẫn trong khái niệm STEM: 1) Kỹ thuật không chỉ là thao tác kỹ thuật, mà còn được hiểu là cả quy trình thực hiện dự án, tức là quy trình giải quyết vấn đề; 2) Công nghệ thường bị mọi người nhầm tưởng rằng phải có máy tính hay thiết bị số mới là công nghệ, mà đôi khi chỉ là việc sử dụng thành thạo các công cụ/thiết bị (dùng kéo cắt hay dùng nhiệt kế đo cũng chính là áp dụng công nghệ). Một vài ví dụ dễ hiểu về STEM chính là cách dạy trẻ em giải quyết những vấn đề thực tế như: làm thế nào để tiết kiệm điện năng, thiết kế lộ trình của ô tô tải thế nào cho hiệu quả kinh tế, xây cái chuồng gà thế nào cho hợp lý, phối hợp quần áo kiểu gì để đỡ hấp nhiệt nhất… Cách hiểu này hoàn toàn phù hợp với nhận định rằng, trẻ em chính là những kỹ sư bẩm sinh, chúng sẽ khám phá và tìm tòi thông qua các hoạt động vui chơi. Nhiệm vụ của người hướng dẫn là định hướng, phản hồi, tổ chức.

3. Thế giới hiện nay đòi hỏi mỗi chúng ta phải có khả năng thích nghi cao, chấp nhận thay đổi bất cứ khi nào và khả năng “đối chọi” với những thay đổi nhanh chóng. Những thay đổi mọi mặt về cuộc sống chỉ trong thời gian ngắn như dịch bệnh bất ngờ trên quy mô toàn cầu khiến cho khả năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng làm việc trong bối cảnh chuyển đổi số, làm việc nhóm… cần hơn bao giờ hết. Những kỹ năng này có thể được tạo lập ngay từ khi còn nhỏ với việc tiếp cận qua những bài học STEM. Một số lợi ích mà STEM mang lại có thể kể đến như sau:

4. Thứ nhất, giáo dục STEM trang bị cho học sinh những kỹ năng sống của công dân trưởng thành trong tương lai. Nó sẽ giúp các em trở thành người có kỹ năng giao tiếp, biết giải quyết vấn đề và có suy nghĩ phản biện - tố chất quan trọng trong mọi mặt của đời sống.

Thứ hai, 4 yếu tố trong STEM (Toán, Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật) là những kiến thức cơ bản của nhân loại từ xa xưa, là nền tảng cho sự phát triển của đời sống con người. Chính vì vậy, giáo dục STEM cũng chính là giáo dục kiến thức cơ bản, nền tảng.

Thứ ba, giáo dục STEM chính là giáo dục về cuộc sống hàng ngày, về cách vận dụng kiến thức trong những bối cảnh thực tiễn để cải thiện đời sống và đặc biệt là để giải quyết vấn đề. Có thể nói, giáo dục STEM chính là cách xây chuồng gà sao cho hữu dụng, làm thế nào để có bữa ăn tối ngon miệng và ai cũng có chỗ ngồi thoải mái quanh bàn ăn, là cách bảo vệ nguồn nước sạch, hay sử dụng nguồn lực một tiết kiệm nhất…

5. Giáo dục STEM tại Hoa Kỳ

Đầu năm 2001, Tổ chức Khoa học quốc gia của Hoa Kỳ đưa ra cụm từ SMET (viết tắt của các từ: Science - Math - Engineering - Technology) về nhóm nghề nghiệp gồm Khoa học, Toán, Kỹ thuật và Công nghệ. Từ viết tắt này cũng bao gồm những ngành và chương trình học tích hợp kiến thức và kỹ năng của những lĩnh vực trên. Sau đó, cũng trong năm 2001, giáo sư, nhà sinh vật học Judith Ramaley - chủ tịch Hiệp hội các trường đại học/cao đẳng Hoa Kỳ đa sắp xếp lại các chữ cái để đổi từ SMET sang STEM. Từ đó, khái niệm STEM và chương trình học tập trung vào STEM chính thức đến với công chúng rộng rãi. Vượt khỏi biên giới Hoa Kỳ, chương trình STEM được phát triển ở Australia, Vương quốc Anh, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc... Vào đầu những năm 2000, những ngành học tích hợp STEM ngày càng tăng lên, đặc biệt sau sự ra đời của bản báo cáo năm 2005 với tiêu đề: “Vượt khỏi cơn bão đang tới” do Học viện quốc gia Hoa Kỳ về Khoa học, Kỹ thuật và Y khoa công bố. Báo cáo nhấn mạnh mối liên hệ giữa sự thịnh vượng với KH&CN, giữa liên tục cải cách và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội. Báo cáo cũng chỉ ra, trong các nhánh của STEM, học sinh Hoa Kỳ không đạt thành tựu nhanh như học sinh nhiều nước khác. Báo cáo dự đoán những hậu quả khốc liệt khi nước này không có sức cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu do lực lượng lao động yếu kém. Do đó, cần tập trung vào nghiên cứu và giáo dục, đặc biệt là giáo dục STEM đối với học sinh - đây chính là những yếu tố quan trọng để duy trì sự thịnh vượng của Hoa Kỳ.

6. Tháng 11/2009, Tổng thống Hoa Kỳ Obama phát động chiến dịch Giáo dục để cải tiến với mục tiêu đưa học sinh lên vị trí hàng đầu về Toán và Khoa học trong vòng 10 năm. Năm 2010, Tổng thống Obama phát động chương trình “Thay đổi phương trình” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục STEM tại Hoa Kỳ, chương trình này do CEO lãnh đạo các tập đoàn đảm trách. Năm 2014, bài kiểm tra về sự hiểu biết công nghệ và kỹ thuật được áp dụng chọn lọc cho một số học sinh nhằm đánh giá hiểu biết về áp dụng công nghệ, tư duy thiết kế hệ thống trong công nghệ, tác động và ảnh hưởng của công nghệ đối với xã hội. Cũng trong năm 2014, Đạo luật giáo dục STEM ra đời, bổ sung khoa học máy tính vào những lĩnh vực thuộc STEM, đồng thời cung cấp nhiều cơ hội đào tạo nâng cao cho giáo viên. Tháng 4/2016, Nhà trắng ra thông cáo báo chí rằng Hoa Kỳ đã đạt một nửa mục tiêu đào tạo 100.000 giáo viên STEM. Tiếp đó năm 2017, Tổng thống Trump ký đạo luật Truyền cảm hứng, yêu cầu NASA khuyến khích phái nữ tham gia vào những ngành nghề STEM. Cũng trong năm này, Tổng thống Trump phê duyệt ngân sách liên bang dành 200 triệu USD hàng năm cho giáo dục STEM chất lượng cao.

7. Như vậy, có thể khẳng định, Hoa Kỳ là quốc gia khởi nguồn và rất coi trọng giáo dục STEM, tuy nhiên với Hoa Kỳ, giáo dục STEM không xa vời và đắt đỏ. STEM dành cho mọi đối tượng, ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, phục vụ và giải quyết những vấn đề cũng như nhu cầu của thực tiễn, cộng đồng. STEM tại Hoa Kỳ dành cho cả học sinh nam và nữ, đặc biệt những học sinh nữ khi học những ngành liên quan đến STEM sẽ có nhiều cơ hội tìm được tài trợ và học bổng. Ở Hoa Kỳ, nhiều học sinh nữ tìm hiểu về robot, mơ ước được làm lập trình viên, theo học các ngành nghề liên quan STEM. Tại các trại hè STEM, tỷ lệ nam và nữ tham gia là ngang nhau. Nam nữ đều có cơ hội bình đẳng khi được tiếp cận với môn học này.

Chính phủ Hoa Kỳ cũng tạo cơ hội tiếp cận STEM bình đẳng cho mọi đối tượng, bất kể nguồn gốc, thu nhập, hay mức sống. Đặc biệt, những trường thuộc khu vực dân cư có thu nhập thấp thì các nguồn lực, tài nguyên cho việc triển khai STEM lại thường dồi dào hơn. Học sinh ở những trường này có cơ hội tham gia những trại hè STEM miễn phí, hay được ứng tuyển vào những chương trình, khoá học, học bổng STEM… Chính vì được cả hệ thống hỗ trợ nên việc thực hành STEM của các học sinh tại Hoa Kỳ trở nên thường xuyên và phổ biến cả ở trường và ở nhà. Các em được giáo dục STEM là một phần của cuộc sống và giúp cải thiện cuộc sống hàng ngày.

8. Để triển khai chương trình STEM, Hoa Kỳ có các mô hình: 1) Trường chuyên STEM (đây là mô hình có cấp độ cao và hoàn thiện nhất, toàn bộ chương trình học được chia thành các dự án với sự hợp tác cao độ giữa tất cả các giáo viên trong trường để đảm bảo chương trình học đúng nội dung của các dự án); 2) Trường có chứng chỉ STEM (đây là cấp độ 2, đạt các tiêu chuẩn nhất định như số lượng giáo viên có chứng chỉ dạy STEM, số giờ học và tiết học theo phương pháp STEM…); 3) Trường có STEM (đây là cấp độ 3, STEM được triển khai như một môn học phụ); 4) Trường có các câu lạc bộ liên quan đến STEM (đây là cấp độ thấp nhất, thường là những trường có những câu lạc bộ như robotic, coding…).  Chính vì sự phổ biến của giáo dục STEM, nên Hoa Kỳ có ngày STEM toàn quốc, ngày 8/11.

(Nguồn: ThS Đinh Thu Hồng; Tạp chí Khoa học và Công nghệ)

Ai là người đã đổi từ SMET sang STEM?