Danh sách câu hỏi

Có 3,464 câu hỏi trên 87 trang

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Biện pháp nào dưới đây không được đề ra trong việc bảo vệ côn trùng ở Việt Nam?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Những loài côn trùng có giá trị kinh tế đang gặp vấn đề gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Kiến Gai đen, ong Đất, ong Khoái là những loài đặc hữu cho khu vực nào?  

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Vườn bướm ở các nước Đông Nam Á được xây dựng phục vụ cho lĩnh vực nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Công dụng nào của côn trùng không được nhắc đến trong đoạn (3)?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Nội dung chính của đoạn (3) là gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Theo dự báo của các nhà côn trùng  học  Hà  Lan, loài nào được dự báo sẽ soán ngôi các loài thực phẩm như gà, bò, lợn?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Đâu là nhận xét đúng về thế giới côn trùng?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?

(1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.  

(2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh.

(3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng.

(4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai.

(5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài.

(6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”.

(7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi.

(8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.

(9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững.

(10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau:

Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”.

Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.  

Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững.

(Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019)

Nội dung chính của văn bản trên là?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Hydro sulfide là:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Đâu là thách thức trong tương lai khi các nhà khoa học thực hiện giấc mơ siêu dẫn nhiệt độ phòng?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Tại sao hydro là biện pháp tối ưu cho nhiệt độ tới hạn cao?  

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Để chứng minh rằng một vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên cứu  thường  kiểm  tra những tính chất nào của vật liệu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Đặc điểm chung của các chất siêu dẫn hydrogen sulfide và lanthanum hydride là gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Năm 2014, ai đã phát hiện ra hydrogen sulfide thể hiện tính chất siêu dẫn?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Siêu  dẫn  được  phát  hiện lần đầu tiên ở đâu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Vật liệu được coi là chất siêu dẫn khi nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng

(1) Vật  liệu  được  coi  là  chất  siêu  dẫn  khi  năng lượng điện được  truyền đi với hiệu suất  100%.  Các chất siêu dẫn có thể  ứng dụng trong một loạt các thiết  bị như máy chụp cộng hưởng từ  trong  bệnh  viện.  Tuy nhiên,  sự  phát triển của các ứng dụng này  đã bị cản trở bởi vì trạng thái siêu  dẫn chỉ xuất hiện tại nhiệt độ thấp  hơn nhiệt độ phòng (295 K).  Trong  một  bài  báo  mới được  công  bố  trên Tạp chí Nature * , Drozdov và  các cộng sự đã  báo cáo một kết  quả đáng ngạc nhiên về tính chất  siêu dẫn của lanthanum hydride.  Khi bị nén tại một áp suất lớn hơn  một  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển  của  trái  đất,  lanthanum  hydride  sẽ xuất hiện tính chất siêu dẫn ở  nhiệt độ 250 K - nhiệt độ cao nhất  của chất siêu dẫn từng được biết  đến.

(2) Siêu  dẫn  được  phát  hiện  lần  đầu tiên trong thủy ngân tại nhiệt  độ dưới 4 K vào năm 1911. Nhiệt  độ  mà  tại  đó  vật  liệu  trở  thành  chất siêu dẫn được gọi là nhiệt độ  tới hạn.  Sau khi phát hiện ra siêu  dẫn, người ta thấy rằng cần thiết  phải tìm kiếm các vật liệu có nhiệt  độ tới hạn lớn hơn 4 K.  Trong hơn  một thế kỷ qua, nhiều chất siêu  dẫn đã được phát hiện, giá trị của  nhiệt độ tới hạn liên tiếp được cải  thiện và dần hướng tới mục tiêu  cuối  cùng  là  bằng  với  nhiệt  độ  phòng  (25 o C,  tương  đương  với  298 K).

(3) Drozdov và  các  cộng  sự  đã  phá vỡ kỷ lục vào năm 2014 khi  họ  phát  hiện  ra  rằng  hydrogen  sulfide (một chất gây ra mùi thối  của  trứng  gà)  thể  hiện  tính  chất  siêu  dẫn  tại  nhiệt  độ  tới  hạn  khoảng  200  K  khi  nó  được  nén  với  một  áp  suất  gấp  2  triệu  lần  áp  suất  khí  quyển.  Sau  đó,  vào  năm 2018, hai nhóm nghiên cứu  độc  lập  (Drozdov  và  cộng  sự;  Somayazulu và cộng sự) đã công  bố  gần  như  đồng  thời  kết  quả  nghiên  cứu  của  mình  với  khẳng  định,  lanthanum  hydride  có  thể  xuất hiện tính chất siêu dẫn ở nhiệt  độ cao hơn (từ 215 đến 280 K).

(4) Đặc điểm chung của các chất  siêu  dẫn  hydrogen  sulfide  và  lanthanum  hydride  là  chúng  rất  giàu hydro và tính chất siêu dẫn  chỉ  xuất  hiện  dưới  một  áp  suất  cực cao (hơn một triệu lần áp suất  khí quyển).  Trong điều kiện khắc  nghiệt như vậy, các liên kết hóa  học bị thay đổi đáng kể và hình  thành các cấu trúc mới không ổn  định.  Trong trường hợp lanthanum  hydride, áp suất cao đã dẫn đến  sự hình thành cấu trúc LaH 10 , cấu  trúc  hóa  học  này  có  hàm  lượng  hydro cao hơn nhiều so với cấu  trúc của lanthanum hydride tại áp  suất khí quyển.

(5) Để đạt được áp suất cực cao  (gần bằng một nửa áp suất tại lõi  của trái đất), Drozdov và các cộng  sự đã sử dụng một thiết bị gọi là  tế bào đe bằng kim cương.  Thiết  bị này có thể nằm gọn trong lòng  bàn tay và tạo áp lực bằng cách  nén  mẫu,  trong  đó  mẫu  được  nằm trong một lá kim loại mỏng,  giữa hai viên kim cương có hình  dạng dẹt. Tuy nhiên cần  lưu  ý  rằng,  với  cấu  tạo  này  chỉ  một  số  phép  đo  là  có  thể  thực  hiện được,  vì mẫu có kích thước  rất nhỏ (~0,01 mm) và được bao  quanh bởi các lá kim loại và kim  cương  có  kích  thước  tương  đối  lớn.    Hơn nữa, để có thể đo được  độ  dẫn  điện,  các  dây  dẫn  điện  cần phải tiếp xúc với mẫu, nhưng  phải cách ly điện bằng giấy bạc.

(6) Các  tác  giả  đã  vượt  qua  được  những  thách  thức  trong  việc  thiết  kế thí nghiệm  siêu dẫn với áp suất  cực cao và đã báo cáo những kết  quả  quan  trọng  về  tính  chất  siêu  dẫn tại nhiệt độ cao của lanthanum  hydride.  Để chứng minh rằng một  vật liệu là siêu dẫn, các nhà nghiên  cứu  thường  kiểm  tra  3  tính  chất  của vật liệu như sau: điện trở bằng  không, sự  giảm nhiệt độ tới hạn dưới  một từ trường  và từ thông bị đẩy ra  khỏi  bên  trong  vật  liệu  (một  hiện  tượng  vật  lý  được  gọi  là  hiệu  ứng  Meissner).  Drozdov  và  các  cộng  sự đã phát hiện ra 2 đặc tính đầu  tiên của chất siêu dẫn.  Đặc tính cuối  cùng - hiệu ứng Meissner đã không  thể quan sát được vì các mẫu quá  nhỏ.

(7) Việc tìm kiếm tính chất siêu dẫn  nhiệt độ cao trong các vật liệu giàu  hydro có thể được liên kết với các  dự đoán trước đó vào năm 2004. Dự  đoán này dựa trên một lý thuyết cho  rằng các nguyên tố với khối lượng  nguyên tử thấp có thể đóng góp vào  giá trị nhiệt độ tới hạn cao.  Hydro  là nguyên tố nhẹ nhất trong bảng  tuần hoàn, do đó tối ưu cho nhiệt  độ tới hạn cao.  Dựa trên logic này,  việc thay thế hydro bằng một đồng  vị  deuterium  nặng  hơn  sẽ  dẫn  tới  giảm nhiệt độ tới hạn.  Drozdov và  các cộng sự đã quan sát tính chất  siêu  dẫn  với  đồng  vị  này  và  thấy  rằng nhiệt độ tới hạn của lanthanum  deuteride thấp hơn so với lanthanum  hydride. Kết luận này gần như chính  xác theo dự đoán của lý thuyết.

(8) Từ quan điểm khoa học, những  kết quả này cho thấy chúng ta đang  bước  vào  giai  đoạn  chuyển  đổi  từ  tìm  kiếm  chất  siêu  dẫn  bằng  thực  nghiệm,  trực  giác  hoặc  may  mắn  sang tìm kiếm chất siêu dẫn dựa trên  các hướng dẫn được dự đoán bởi lý  thuyết. Nhiệt độ tới hạn của vật liệu  siêu dẫn từ lâu đã được coi là một  trong  những  tính  chất  khó  có  thể  tính toán chính xác.  Tuy nhiên, các  thực nghiệm trên hydrogen sulfide  và lanthanum hydride đã được thúc  đẩy bởi các kết quả từ tính toán lý  thuyết.  Những thành công đáng chú  ý này dường như được thúc đẩy bởi  các tiến bộ trong các phương pháp  tính toán gần đây.

(9) Tầm quan trọng thực tế của tính  chất  siêu  dẫn  trong  các  vật  liệu  được tổng hợp với số lượng cực nhỏ  tại một áp suất lớn hơn áp suất khí  quyển một triệu lần là gì?  Câu trả  lời phụ thuộc vào việc các trạng thái  siêu dẫn có thể được phục hồi tại  áp suất khí quyển hay không.  Bản  thân kim cương là một ví dụ về vật  liệu  được  hình  thành  tại  áp  suất  cao nhưng có thể tồn tại trong áp  suất  khí  quyển.  Nỗ  lực  sản  xuất  kim cương tổng hợp cung cấp động  lực đáng kể cho sự phát triển của  các phương pháp thực nghiệm với  áp  suất  cao.  Tuy  nhiên,  ngày  nay  kim cương tổng hợp được phát triển  bằng cách sử dụng một kỹ thuật với  áp  suất  thấp  gọi  là  lắng  đọng  hơi  hóa học.  Về mặt lạc quan, cuối cùng  có thể sử dụng các phương pháp với  áp suất thấp tương tự để tạo ra các  chất siêu dẫn siêu bền được phát  hiện ban đầu tại áp suất cao.

(10) Trong vài năm tới, các thí nghiệm  có  thể  sẽ  tập  trung  vào  việc  tìm  kiếm tính siêu dẫn trong các vật liệu  giàu hydro có áp suất thấp hơn.  Do  đó dường như nhiều khả năng giấc  mơ  siêu  dẫn  nhiệt  độ  phòng  có  thể được thực hiện trong tương lai  gần.  Tại  thời  điểm  đó,  thách  thức  lớn  sẽ  chuyển  từ  đẩy  nhiệt  độ  tới  hạn lên cao hơn sang đẩy áp suất  cần thiết xuống thấp hơn.

(Nguồn: “Nghiên cứu mới về siêu dẫn gần nhiệt độ phòng”, Nguyễn Tuấn Hưng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Nội dung chính của văn bản trên là?

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Theo Tiến sĩ Phi, về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có, chúng ta sẽ đầu tư về lĩnh vực nào cho máy móc?

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Nhóm nghiên cứu đặt mục tiêu đến năm 2030, thị phần máy nông nghiệp sẽ:

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Vì sao nông dân Việt Nam ít khi lựa chọn máy nông nghiệp công suất cao?

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

So với ngành ô tô, ngành sản xuất máy nông nghiệp ở Việt Nam:

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Theo đoạn trích, công nghệ chế tạo bộ phận nào sau đây sẽ đóng vai trò quan trọng nhất trong tương lai của ngành ô tô?

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Bước ngoặt lớn của ngành ô tô thế giới là gì?

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô Việt Nam đã làm gì để tăng tỉ lệ nội địa hóa?

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Cụm từ “tỷ lệ nội địa hóa” ở đoạn 1 mang ý nghĩa gì?

Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.

1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.

2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...

3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến

hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.

4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.

5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).

6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.

7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.

8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.

(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)

Nội dung chính của bài đọc trên là?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng” chứng minh cho điều gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Bên cạnh hiệu quả kinh tế, án “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” còn tạo nên hiệu quả xã hội nào?  

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Theo văn bản, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại là bao nhiêu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Sau  hơn  2  năm  thực  hiện dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” vượt bao nhiêu phần trăm so với sản lượng đề ra?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” nhằm mục đích gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Theo văn bản, tại tỉnh Phú Thọ đã thực hiện dự án gì để nâng cao chất lượng sản xuất gỗ?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Theo văn bản, ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam đã có định hướng gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng

(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm  hơn 55% diện tích tự nhiên, trong  đó  rừng  trồng  có  diện  tích  gần  120.000 ha, hàng năm cung cấp  sản lượng gỗ có thể khai thác trên  300.000 m 3  (keo, bạch đàn...), Phú  Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên  liệu  gỗ  rừng  trồng  rất  lớn.  Mấy  năm gần đây, các cơ sở chế biến  gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia  đình đang phát triển nhanh tại các  huyện

có nhiều rừng trồng ở Phú  Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ  sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên,  công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ  rừng trồng ở đây còn bị đánh giá  là thiếu quy hoạch  và phát triển  không bền vững, hiệu quả sử dụng  nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang  lại thu nhập xứng đáng cho người  trồng rừng và góp phần phát triển  kinh tế địa phương. Nguyên nhân  chủ yếu là do gỗ được sử dụng  ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các  nhà máy giấy, một số cơ sở thu  mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm  gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác  làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ  sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc  hầu như không đáng kể. Theo kết  quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ  chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và  sấy khô quy mô lớn, sử dụng công  nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể  tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu  cầu sản xuất đồ mộc chất lượng  cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng  trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ  (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ  10  đến  20  m 3 /ngày),  sản  phẩm  gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp  pha  xây  dựng  hoặc  làm  nguyên  liệu đóng các sản phẩm mộc dân  dụng  chất  lượng  thấp,  phục  vụ  tiêu dùng tại địa phương. Đây là  nguyên nhân chính hạn chế khả  năng đưa cây keo (sản phẩm chủ  lực của rừng trồng) trở thành hàng  hóa và là sản phẩm đặc trưng của  bà con nhân dân miền núi.  

(2) Tăng  cường  và  chủ  động  khai  thác  nguồn  nguyên  liệu  trong  nước,  đặc  biệt  là  sử  dụng  gỗ rừng trồng là định hướng của  ngành công nghiệp chế biến gỗ  Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ  nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo  nói riêng của ngành công nghiệp  chế biến gỗ ngày càng tăng, việc  đầu tư xây dựng một mô hình chế  biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung  và gỗ keo nói riêng với công nghệ  tiên tiến trong thời điểm hiện nay  là  rất  cần  thiết  và  phù  hợp  với  điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm  góp phần tạo việc làm, tăng thu  nhập cho người trồng rừng (nhờ  việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ  giá  cao  hơn).  Xuất  phát  từ  thực  tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương  mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã  đề xuất và được phê duyệt thực  hiện dự án “Ứng dụng công nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh  Phú  Thọ”  (thuộc  Chương  trình nông thôn miền núi giai đoạn  2016-2025).  Dự  án  được  thực  hiện với sự hỗ trợ công nghệ của  Viện  Nghiên  cứu  Công  nghiệp  rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp  Việt Nam).

(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới

Dự  án  “Ứng  dụng  công  nghệ  mới  trong  sấy  gỗ  rừng  trồng  tại  tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với  mục  tiêu  xây  dựng  và  đưa  vào  vận hành hệ thống lò sấy gỗ với  công nghệ và thiết bị tiên tiến, có  chế độ sấy được điều khiển, giám  sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ  nhằm  nâng  cao  chất  lượ ng  gỗ  phục vụ chế biến ván ghép thanh,  góp phần sử dụng hiệu quả nguồn  nguyên liệu gỗ rừng trồng  ở địa  phương,  phát  triển  chuỗi  cung  ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo  chất lượng cao.  

(4) Sau  hơn  2  năm  thực  hiện  (tháng  11/2016-4/2019),  dự  án  đã hoàn thành tốt các mục tiêu và  nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã  xây dựng được 1 hệ thống lò sấy  gỗ với công nghệ và thiết bị tiên  tiến, chế độ sấy được điều khiển,  giám sát tự động, công suất sấy  120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với  kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện  Đoan  Hùng,  tỉnh  Phú  Thọ;  xây  dựng  được  quy  trình  công  nghệ  sấy  gỗ  rừng  trồng  (gỗ  keo)  phù  hợp  với  hệ  thống  lò  sấy  đã  xây  dựng; tiếp nhận thành công công  nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát  tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng...

(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo  được 5 kỹ thuật viên làm chủ công  nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước  lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy;  sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy;  kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ  keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật  vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá  chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi  sấy, đồng thời tổ chức tập huấn  cho 70 lao động phổ thông về kỹ  thuật vận hành hệ thống sấy gỗ...  Đặc  biệt,  trên  cơ  sở  công  nghệ  được chuyển giao từ Viện Nghiên  cứu Công nghiệp rừng, dự án đã  sản xuất được 500 m 3  sản phẩm  gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu  (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do  khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản  phẩm gỗ sấy của dự án đã được  Công ty TNHH Trung Thành (Phú  Thọ)  ký  hợp  đồng  tiêu  thụ  với  công suất 4.000 m 3 /năm.

(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông  Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án  cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán  gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu  được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng  130.000  đồng/m 3 ,  còn  khi  bán  gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên  khoảng  370.000  đồng/m 3 .  Như  vậy, lợi nhuận công ty thu được  khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không  sấy  hiện  tại  là  khoảng  240.000  đồng/m 3 , con số này chưa phải là  cao nhất do chi phí ban đầu (khấu  hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm  chi phí khấu hao tài sản, chi phí  nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế  phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận  Công ty thu được sẽ cao dần lên.  Bên  cạnh hiệu  quả  kinh  tế  trực  tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công  ty đi vào hoạt động còn tạo thêm  công  ăn  việc  làm  thường  xuyên  cho gần 30 công nhân.  

(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được  triển  khai  thành  công  đã  tạo  ra  sản  phẩm  mới  cho  địa  phương,  thúc  đẩy  phát  triển  nghề  trồng  rừng và công nghiệp chế biến gỗ  ở địa phương; tạo thêm công ăn  việc làm cho hàng nghìn lao động  vùng nguyên liệu, tăng thu nhập  cho người lao động, góp phần hỗ  trợ thiết thực cho chương trình xóa  đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở  vùng sâu, vùng xa. Kết quả của  dự  án  còn  là  mô  hình  hữu  hiệu  giới  thiệu  việc  ứng  dụng  khoa  học và công nghệ phục vụ phát  triển kinh tế - xã hội nông thôn,  miền núi để nhân rộng ra các địa  phương khác.

(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Nội dung chính của đoạn (1) là?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc

(1) Những  năm  gần  đây,  chương  trình  quốc  gia  về  cải  tạo  đàn  bò  nội bằng các giống bò Zebu như:  Brahman, Sahiwal, Droutmaster...  dần  được  quan  tâm  ở  nhiều  địa  phương trên cả nước, đặc biệt là  các tỉnh đồng bằng và duyên hải  miền  Trung.  Trên  cả  nước,  số  lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên  50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành  phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ  An  đạt  70-80%.  Việc  Zebu  hóa  đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên  25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song  chương  trình  chủ  yếu  triển  khai  ở những vùng có điều kiện thuận  lợi như đồng bằng, các vùng ven  đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc,  Tuyên Quang, số lượng tổng đàn  thấp  (lần  lượt  khoảng  105.200,  102.950,  21.220  con),  việc  chăn  nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia  đình,  chủ  yếu  là  giống  bò  vàng  địa phương (chiếm 80%) có khối  lượng  trưởng  thành  thấp,  sinh  trưởng  chậm,  khối  lượng  trung  bình con đực là 220-250 kg và con  cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ  khoảng 40-42% khối lượng sống.  Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù  các  địa  phương  này  đã  đầu  tư  cho công tác cải tạo đàn bò theo  hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí  còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu  đồng bộ và sự hiểu biết của đồng  bào các dân tộc thiểu số chưa cao  nên kết quả thu được còn hạn chế.  

(2) Mặc  dù  3  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc và Tuyên Quang đều thuộc  vùng trung du, miền núi, có điều  kiện  tự  nhiên  phù  hợp  cho  chăn  nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu,  bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn  theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi  quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ,  thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa  thu hút được sự quan tâm của các  doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc  dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho  bò vào mùa rét còn hạn chế, do  đó cứ đến mùa đông là hàng trăm  con trâu, bò ở các huyện vùng cao  bị chết đói, rét, gây thiệt hại không  nhỏ về kinh tế - xã hội.

(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề  chăn  nuôi  bò  tại  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  ở  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc,  Tuyên  Quang,  giúp khai thác hiệu quả tiềm năng  về điều kiện tự nhiên, nguồn lao  động  nhàn  rỗi  ở  địa  phương,  Bộ  KH&CN  đã  phê  duyệt  triển  khai  dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN  xây  dựng  mô  hình  nuôi  bò  thịt  ở  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  tại một số tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ  trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ  KH&CN  thúc  đẩy  phát  triển  kinh  tế  -  xã  hội  nông  thôn,  miền  núi,  vùng  dân  tộc  thiểu  số  giai  đoạn  2016-2025”  (Chương  trình  nông  thôn  miền  núi).  Dự  án  do  Viện  Chiến lược và Chính sách Dân tộc  chủ trì, cơ quan chuyển giao công  nghệ  là  Trung  tâm  Nghiên  cứu  Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn  nuôi,  Bộ  Nông  nghiệp  và  Phát  triển nông thôn). Qua hơn 2 năm  thực hiện, dự án đã chuyển giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  về  chăn  nuôi bò, giúp nâng cao năng suất,  chất lượng đàn bò của địa phương;  đồng thời tuyên truyền, tập huấn  làm thay đổi nhận thức của đồng  bào  từ  chăn  thả  sang  chăn  nuôi  công nghiệp theo hướng chủ động  thức ăn thô, xanh thông qua trồng  cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu  quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết  quả đạt được của dự án mở ra tiềm  năng  lớn  giúp  đảm  bảo  vệ  sinh  môi trường, giải quyết việc làm cho  vùng đồng bào dân tộc thiểu số,  góp phần từng bước đưa người dân  địa phương thoát nghèo, vươn lên  làm giàu trên chính mảnh đất quê  hương mình.

(4) Nhiều  điểm  sáng  về  áp  dụng  công  nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào  dân tộc thiểu số

Dự  án  đã  chuyển  giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  giúp  người  chăn  nuôi  ở  các  địa  phương  dần  thích  nghi và hướng tới tiếp cận với mô  hình phát triển đàn bò quy mô lớn  hơn, tập trung hơn. Cụ thể:

(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa  giống bò đực Brahman với bò cái  của địa phương thông qua 2 hình  thức:  sử  dụng  tinh  đông  lạnh  của  giống  bò  thuần  Brahman  đỏ  chất  lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho  bò cái địa phương ở một số khu vực  có  số  lượng  bò  cái  tương  đối  tập  trung và địa hình thuận tiện để tạo  “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử  dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ  phối giống trực tiếp với bò cái nền  của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được  đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm  nền phục vụ công tác cải tạo giống  sau  này,  giúp  cải  thiện  tầm  vóc,  tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò  trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ  lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với  giống bò địa phương.

(6) Bên  cạnh  phương  pháp  lai  tạo  giống được chuyển giao, dự án đã  hỗ  trợ  triển  khai  nhiều  tiến  bộ  kỹ  thuật  như:  chọn  bò  cái  làm  giống  có  tỷ  lệ  sinh  sản,  sinh  trưởng  tốt  hơn;  phát  hiện  bò  động  dục,  xác  định thời gian phối giống thích hợp  trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho  bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái  qua  các  giai  đoạn:  sơ  sinh,  tơ  lỡ,  chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con  ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò  mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ;  chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê,  bò đực theo từng giai đoạn đến lúc  bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy,  bò  thải  loại;  phòng  bệnh,  vệ  sinh  thú y... giúp mang lại hiệu quả cao  trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp  dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở  giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn  bị giết thịt không những giúp tăng  năng suất mà còn kiểm soát được  mức độ an toàn của sản phẩm cung  cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ  thuật rất mới đối với đồng bào dân  tộc thiểu số.

(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho  bò trong suốt quá trình nuôi, nhất  là  vào  mùa  rét,  dự  án  đã  hỗ  trợ  trồng và thâm canh giống cỏ VA06  năng suất cao, chất lượng phù hợp  với các huyện vùng dự án, nhờ đó  tạo được nguồn thức ăn xanh thô  chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả  công  tác  chuyển  dịch  cơ  cấu  cây  trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.  Đặc biệt, dự án còn áp dụng công  nghệ ủ chua để chế biến thức ăn,  giúp  tận  dụng  các  loại  phế,  phụ  phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân  cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra  công  thức  thức  ăn  tinh  từ  nguồn  nguyên liệu sẵn có tại địa phương.  Việc tạo được khẩu phần ăn có giá  trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp  tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả  chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ  môi trường do tận dụng một lượng  lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và  chế biến thải ra.

(8) Trong  công  tác  phòng,  chống  bệnh  tật  cho  bò,  bên  cạnh  việc  áp dụng các kỹ thuật về xây dựng  chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y,  xử lý chất thải, giúp chống gió lùa  vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm  môi trường trong khuôn viên hộ và  làng, bản..., dự án còn chuyển giao  cho  cán  bộ  kỹ  thuật  địa  phương  và người chăn nuôi các biện pháp  phòng,  chữa  bệnh  cho  bò  thông  qua việc sử dụng các loại vắcxin:  tụ huyết trùng, lở mồm long móng...  

(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được  10  kỹ  thuật  viên,  tập  huấn  cho  hơn 300 lượt người dân trong vùng  tiếp thu và làm chủ các quy trình  kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng  thành  công  mô  hình  nuôi  bò  sinh  sản với 240 bò cái  nền địa phương  và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman  đỏ.  Số  bê  sinh  ra  sau  đợt  phối  giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực  và 90 con cái (hiện có 216 bò cái  đang chửa sau đợt phối giống lần  2). Khối lượng sơ sinh của bê  ≥  22  kg (tăng 10-12% so với bê thường),  khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg,  khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130  kg,  dự  kiến  sau  24  tháng  tuổi  sẽ  đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây  dựng thành công mô hình trồng cỏ  voi lai VA06 thâm canh năng suất  cao, chất lượng tốt với diện tích 6  ha,  đạt  chỉ  tiêu  350  tấn/ha/năm,  dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra  6.300 tấn thức ăn thô xanh.

(10) Theo  tính  toán,  sau  khi  dự  án  kết thúc, các mô hình tập trung và  mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho  ra 366 con bê lai với trên 50% máu  bò Brahman. Trong số bê lai này,  những con cái sẽ tiếp tục được nuôi  phục vụ nhân giống chất lượng cao  cung  cấp  cho  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê  đực được nuôi và vỗ béo bán thịt  ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình  quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực  phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án  không chỉ nâng cao trình độ dân trí,  nhận thức về tầm quan trọng của  KH&CN cho người dân vùng cao,  mà còn giúp tăng thu nhập trên 1  đơn vị diện tích đất canh tác, góp  phần  chuyển  dịch  cơ  cấu  ngành  chăn  nuôi,  tạo  nguồn  thu  nhập  đáng  kể  cho  đồng  bào  vùng  dân  tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.  

(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Ý chính của văn bản trên là:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc

(1) Những  năm  gần  đây,  chương  trình  quốc  gia  về  cải  tạo  đàn  bò  nội bằng các giống bò Zebu như:  Brahman, Sahiwal, Droutmaster...  dần  được  quan  tâm  ở  nhiều  địa  phương trên cả nước, đặc biệt là  các tỉnh đồng bằng và duyên hải  miền  Trung.  Trên  cả  nước,  số  lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên  50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành  phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ  An  đạt  70-80%.  Việc  Zebu  hóa  đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên  25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song  chương  trình  chủ  yếu  triển  khai  ở những vùng có điều kiện thuận  lợi như đồng bằng, các vùng ven  đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc,  Tuyên Quang, số lượng tổng đàn  thấp  (lần  lượt  khoảng  105.200,  102.950,  21.220  con),  việc  chăn  nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia  đình,  chủ  yếu  là  giống  bò  vàng  địa phương (chiếm 80%) có khối  lượng  trưởng  thành  thấp,  sinh  trưởng  chậm,  khối  lượng  trung  bình con đực là 220-250 kg và con  cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ  khoảng 40-42% khối lượng sống.  Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù  các  địa  phương  này  đã  đầu  tư  cho công tác cải tạo đàn bò theo  hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí  còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu  đồng bộ và sự hiểu biết của đồng  bào các dân tộc thiểu số chưa cao  nên kết quả thu được còn hạn chế.  

(2) Mặc  dù  3  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc và Tuyên Quang đều thuộc  vùng trung du, miền núi, có điều  kiện  tự  nhiên  phù  hợp  cho  chăn  nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu,  bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn  theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi  quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ,  thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa  thu hút được sự quan tâm của các  doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc  dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho  bò vào mùa rét còn hạn chế, do  đó cứ đến mùa đông là hàng trăm  con trâu, bò ở các huyện vùng cao  bị chết đói, rét, gây thiệt hại không  nhỏ về kinh tế - xã hội.

(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề  chăn  nuôi  bò  tại  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  ở  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc,  Tuyên  Quang,  giúp khai thác hiệu quả tiềm năng  về điều kiện tự nhiên, nguồn lao  động  nhàn  rỗi  ở  địa  phương,  Bộ  KH&CN  đã  phê  duyệt  triển  khai  dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN  xây  dựng  mô  hình  nuôi  bò  thịt  ở  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  tại một số tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ  trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ  KH&CN  thúc  đẩy  phát  triển  kinh  tế  -  xã  hội  nông  thôn,  miền  núi,  vùng  dân  tộc  thiểu  số  giai  đoạn  2016-2025”  (Chương  trình  nông  thôn  miền  núi).  Dự  án  do  Viện  Chiến lược và Chính sách Dân tộc  chủ trì, cơ quan chuyển giao công  nghệ  là  Trung  tâm  Nghiên  cứu  Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn  nuôi,  Bộ  Nông  nghiệp  và  Phát  triển nông thôn). Qua hơn 2 năm  thực hiện, dự án đã chuyển giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  về  chăn  nuôi bò, giúp nâng cao năng suất,  chất lượng đàn bò của địa phương;  đồng thời tuyên truyền, tập huấn  làm thay đổi nhận thức của đồng  bào  từ  chăn  thả  sang  chăn  nuôi  công nghiệp theo hướng chủ động  thức ăn thô, xanh thông qua trồng  cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu  quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết  quả đạt được của dự án mở ra tiềm  năng  lớn  giúp  đảm  bảo  vệ  sinh  môi trường, giải quyết việc làm cho  vùng đồng bào dân tộc thiểu số,  góp phần từng bước đưa người dân  địa phương thoát nghèo, vươn lên  làm giàu trên chính mảnh đất quê  hương mình.

(4) Nhiều  điểm  sáng  về  áp  dụng  công  nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào  dân tộc thiểu số

Dự  án  đã  chuyển  giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  giúp  người  chăn  nuôi  ở  các  địa  phương  dần  thích  nghi và hướng tới tiếp cận với mô  hình phát triển đàn bò quy mô lớn  hơn, tập trung hơn. Cụ thể:

(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa  giống bò đực Brahman với bò cái  của địa phương thông qua 2 hình  thức:  sử  dụng  tinh  đông  lạnh  của  giống  bò  thuần  Brahman  đỏ  chất  lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho  bò cái địa phương ở một số khu vực  có  số  lượng  bò  cái  tương  đối  tập  trung và địa hình thuận tiện để tạo  “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử  dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ  phối giống trực tiếp với bò cái nền  của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được  đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm  nền phục vụ công tác cải tạo giống  sau  này,  giúp  cải  thiện  tầm  vóc,  tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò  trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ  lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với  giống bò địa phương.

(6) Bên  cạnh  phương  pháp  lai  tạo  giống được chuyển giao, dự án đã  hỗ  trợ  triển  khai  nhiều  tiến  bộ  kỹ  thuật  như:  chọn  bò  cái  làm  giống  có  tỷ  lệ  sinh  sản,  sinh  trưởng  tốt  hơn;  phát  hiện  bò  động  dục,  xác  định thời gian phối giống thích hợp  trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho  bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái  qua  các  giai  đoạn:  sơ  sinh,  tơ  lỡ,  chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con  ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò  mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ;  chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê,  bò đực theo từng giai đoạn đến lúc  bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy,  bò  thải  loại;  phòng  bệnh,  vệ  sinh  thú y... giúp mang lại hiệu quả cao  trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp  dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở  giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn  bị giết thịt không những giúp tăng  năng suất mà còn kiểm soát được  mức độ an toàn của sản phẩm cung  cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ  thuật rất mới đối với đồng bào dân  tộc thiểu số.

(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho  bò trong suốt quá trình nuôi, nhất  là  vào  mùa  rét,  dự  án  đã  hỗ  trợ  trồng và thâm canh giống cỏ VA06  năng suất cao, chất lượng phù hợp  với các huyện vùng dự án, nhờ đó  tạo được nguồn thức ăn xanh thô  chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả  công  tác  chuyển  dịch  cơ  cấu  cây  trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.  Đặc biệt, dự án còn áp dụng công  nghệ ủ chua để chế biến thức ăn,  giúp  tận  dụng  các  loại  phế,  phụ  phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân  cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra  công  thức  thức  ăn  tinh  từ  nguồn  nguyên liệu sẵn có tại địa phương.  Việc tạo được khẩu phần ăn có giá  trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp  tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả  chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ  môi trường do tận dụng một lượng  lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và  chế biến thải ra.

(8) Trong  công  tác  phòng,  chống  bệnh  tật  cho  bò,  bên  cạnh  việc  áp dụng các kỹ thuật về xây dựng  chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y,  xử lý chất thải, giúp chống gió lùa  vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm  môi trường trong khuôn viên hộ và  làng, bản..., dự án còn chuyển giao  cho  cán  bộ  kỹ  thuật  địa  phương  và người chăn nuôi các biện pháp  phòng,  chữa  bệnh  cho  bò  thông  qua việc sử dụng các loại vắcxin:  tụ huyết trùng, lở mồm long móng...  

(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được  10  kỹ  thuật  viên,  tập  huấn  cho  hơn 300 lượt người dân trong vùng  tiếp thu và làm chủ các quy trình  kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng  thành  công  mô  hình  nuôi  bò  sinh  sản với 240 bò cái  nền địa phương  và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman  đỏ.  Số  bê  sinh  ra  sau  đợt  phối  giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực  và 90 con cái (hiện có 216 bò cái  đang chửa sau đợt phối giống lần  2). Khối lượng sơ sinh của bê  ≥  22  kg (tăng 10-12% so với bê thường),  khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg,  khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130  kg,  dự  kiến  sau  24  tháng  tuổi  sẽ  đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây  dựng thành công mô hình trồng cỏ  voi lai VA06 thâm canh năng suất  cao, chất lượng tốt với diện tích 6  ha,  đạt  chỉ  tiêu  350  tấn/ha/năm,  dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra  6.300 tấn thức ăn thô xanh.

(10) Theo  tính  toán,  sau  khi  dự  án  kết thúc, các mô hình tập trung và  mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho  ra 366 con bê lai với trên 50% máu  bò Brahman. Trong số bê lai này,  những con cái sẽ tiếp tục được nuôi  phục vụ nhân giống chất lượng cao  cung  cấp  cho  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê  đực được nuôi và vỗ béo bán thịt  ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình  quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực  phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án  không chỉ nâng cao trình độ dân trí,  nhận thức về tầm quan trọng của  KH&CN cho người dân vùng cao,  mà còn giúp tăng thu nhập trên 1  đơn vị diện tích đất canh tác, góp  phần  chuyển  dịch  cơ  cấu  ngành  chăn  nuôi,  tạo  nguồn  thu  nhập  đáng  kể  cho  đồng  bào  vùng  dân  tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.  

(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Dự án nuôi bò ở trên đem lại ý nghĩa gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc

(1) Những  năm  gần  đây,  chương  trình  quốc  gia  về  cải  tạo  đàn  bò  nội bằng các giống bò Zebu như:  Brahman, Sahiwal, Droutmaster...  dần  được  quan  tâm  ở  nhiều  địa  phương trên cả nước, đặc biệt là  các tỉnh đồng bằng và duyên hải  miền  Trung.  Trên  cả  nước,  số  lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên  50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành  phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ  An  đạt  70-80%.  Việc  Zebu  hóa  đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên  25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song  chương  trình  chủ  yếu  triển  khai  ở những vùng có điều kiện thuận  lợi như đồng bằng, các vùng ven  đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc,  Tuyên Quang, số lượng tổng đàn  thấp  (lần  lượt  khoảng  105.200,  102.950,  21.220  con),  việc  chăn  nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia  đình,  chủ  yếu  là  giống  bò  vàng  địa phương (chiếm 80%) có khối  lượng  trưởng  thành  thấp,  sinh  trưởng  chậm,  khối  lượng  trung  bình con đực là 220-250 kg và con  cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ  khoảng 40-42% khối lượng sống.  Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù  các  địa  phương  này  đã  đầu  tư  cho công tác cải tạo đàn bò theo  hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí  còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu  đồng bộ và sự hiểu biết của đồng  bào các dân tộc thiểu số chưa cao  nên kết quả thu được còn hạn chế.  

(2) Mặc  dù  3  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc và Tuyên Quang đều thuộc  vùng trung du, miền núi, có điều  kiện  tự  nhiên  phù  hợp  cho  chăn  nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu,  bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn  theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi  quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ,  thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa  thu hút được sự quan tâm của các  doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc  dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho  bò vào mùa rét còn hạn chế, do  đó cứ đến mùa đông là hàng trăm  con trâu, bò ở các huyện vùng cao  bị chết đói, rét, gây thiệt hại không  nhỏ về kinh tế - xã hội.

(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề  chăn  nuôi  bò  tại  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  ở  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc,  Tuyên  Quang,  giúp khai thác hiệu quả tiềm năng  về điều kiện tự nhiên, nguồn lao  động  nhàn  rỗi  ở  địa  phương,  Bộ  KH&CN  đã  phê  duyệt  triển  khai  dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN  xây  dựng  mô  hình  nuôi  bò  thịt  ở  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  tại một số tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ  trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ  KH&CN  thúc  đẩy  phát  triển  kinh  tế  -  xã  hội  nông  thôn,  miền  núi,  vùng  dân  tộc  thiểu  số  giai  đoạn  2016-2025”  (Chương  trình  nông  thôn  miền  núi).  Dự  án  do  Viện  Chiến lược và Chính sách Dân tộc  chủ trì, cơ quan chuyển giao công  nghệ  là  Trung  tâm  Nghiên  cứu  Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn  nuôi,  Bộ  Nông  nghiệp  và  Phát  triển nông thôn). Qua hơn 2 năm  thực hiện, dự án đã chuyển giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  về  chăn  nuôi bò, giúp nâng cao năng suất,  chất lượng đàn bò của địa phương;  đồng thời tuyên truyền, tập huấn  làm thay đổi nhận thức của đồng  bào  từ  chăn  thả  sang  chăn  nuôi  công nghiệp theo hướng chủ động  thức ăn thô, xanh thông qua trồng  cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu  quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết  quả đạt được của dự án mở ra tiềm  năng  lớn  giúp  đảm  bảo  vệ  sinh  môi trường, giải quyết việc làm cho  vùng đồng bào dân tộc thiểu số,  góp phần từng bước đưa người dân  địa phương thoát nghèo, vươn lên  làm giàu trên chính mảnh đất quê  hương mình.

(4) Nhiều  điểm  sáng  về  áp  dụng  công  nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào  dân tộc thiểu số

Dự  án  đã  chuyển  giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  giúp  người  chăn  nuôi  ở  các  địa  phương  dần  thích  nghi và hướng tới tiếp cận với mô  hình phát triển đàn bò quy mô lớn  hơn, tập trung hơn. Cụ thể:

(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa  giống bò đực Brahman với bò cái  của địa phương thông qua 2 hình  thức:  sử  dụng  tinh  đông  lạnh  của  giống  bò  thuần  Brahman  đỏ  chất  lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho  bò cái địa phương ở một số khu vực  có  số  lượng  bò  cái  tương  đối  tập  trung và địa hình thuận tiện để tạo  “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử  dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ  phối giống trực tiếp với bò cái nền  của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được  đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm  nền phục vụ công tác cải tạo giống  sau  này,  giúp  cải  thiện  tầm  vóc,  tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò  trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ  lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với  giống bò địa phương.

(6) Bên  cạnh  phương  pháp  lai  tạo  giống được chuyển giao, dự án đã  hỗ  trợ  triển  khai  nhiều  tiến  bộ  kỹ  thuật  như:  chọn  bò  cái  làm  giống  có  tỷ  lệ  sinh  sản,  sinh  trưởng  tốt  hơn;  phát  hiện  bò  động  dục,  xác  định thời gian phối giống thích hợp  trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho  bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái  qua  các  giai  đoạn:  sơ  sinh,  tơ  lỡ,  chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con  ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò  mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ;  chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê,  bò đực theo từng giai đoạn đến lúc  bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy,  bò  thải  loại;  phòng  bệnh,  vệ  sinh  thú y... giúp mang lại hiệu quả cao  trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp  dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở  giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn  bị giết thịt không những giúp tăng  năng suất mà còn kiểm soát được  mức độ an toàn của sản phẩm cung  cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ  thuật rất mới đối với đồng bào dân  tộc thiểu số.

(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho  bò trong suốt quá trình nuôi, nhất  là  vào  mùa  rét,  dự  án  đã  hỗ  trợ  trồng và thâm canh giống cỏ VA06  năng suất cao, chất lượng phù hợp  với các huyện vùng dự án, nhờ đó  tạo được nguồn thức ăn xanh thô  chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả  công  tác  chuyển  dịch  cơ  cấu  cây  trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.  Đặc biệt, dự án còn áp dụng công  nghệ ủ chua để chế biến thức ăn,  giúp  tận  dụng  các  loại  phế,  phụ  phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân  cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra  công  thức  thức  ăn  tinh  từ  nguồn  nguyên liệu sẵn có tại địa phương.  Việc tạo được khẩu phần ăn có giá  trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp  tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả  chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ  môi trường do tận dụng một lượng  lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và  chế biến thải ra.

(8) Trong  công  tác  phòng,  chống  bệnh  tật  cho  bò,  bên  cạnh  việc  áp dụng các kỹ thuật về xây dựng  chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y,  xử lý chất thải, giúp chống gió lùa  vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm  môi trường trong khuôn viên hộ và  làng, bản..., dự án còn chuyển giao  cho  cán  bộ  kỹ  thuật  địa  phương  và người chăn nuôi các biện pháp  phòng,  chữa  bệnh  cho  bò  thông  qua việc sử dụng các loại vắcxin:  tụ huyết trùng, lở mồm long móng...  

(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được  10  kỹ  thuật  viên,  tập  huấn  cho  hơn 300 lượt người dân trong vùng  tiếp thu và làm chủ các quy trình  kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng  thành  công  mô  hình  nuôi  bò  sinh  sản với 240 bò cái  nền địa phương  và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman  đỏ.  Số  bê  sinh  ra  sau  đợt  phối  giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực  và 90 con cái (hiện có 216 bò cái  đang chửa sau đợt phối giống lần  2). Khối lượng sơ sinh của bê  ≥  22  kg (tăng 10-12% so với bê thường),  khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg,  khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130  kg,  dự  kiến  sau  24  tháng  tuổi  sẽ  đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây  dựng thành công mô hình trồng cỏ  voi lai VA06 thâm canh năng suất  cao, chất lượng tốt với diện tích 6  ha,  đạt  chỉ  tiêu  350  tấn/ha/năm,  dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra  6.300 tấn thức ăn thô xanh.

(10) Theo  tính  toán,  sau  khi  dự  án  kết thúc, các mô hình tập trung và  mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho  ra 366 con bê lai với trên 50% máu  bò Brahman. Trong số bê lai này,  những con cái sẽ tiếp tục được nuôi  phục vụ nhân giống chất lượng cao  cung  cấp  cho  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê  đực được nuôi và vỗ béo bán thịt  ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình  quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực  phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án  không chỉ nâng cao trình độ dân trí,  nhận thức về tầm quan trọng của  KH&CN cho người dân vùng cao,  mà còn giúp tăng thu nhập trên 1  đơn vị diện tích đất canh tác, góp  phần  chuyển  dịch  cơ  cấu  ngành  chăn  nuôi,  tạo  nguồn  thu  nhập  đáng  kể  cho  đồng  bào  vùng  dân  tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.  

(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Nội dung chính của đoạn (9) là gì?   

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc

(1) Những  năm  gần  đây,  chương  trình  quốc  gia  về  cải  tạo  đàn  bò  nội bằng các giống bò Zebu như:  Brahman, Sahiwal, Droutmaster...  dần  được  quan  tâm  ở  nhiều  địa  phương trên cả nước, đặc biệt là  các tỉnh đồng bằng và duyên hải  miền  Trung.  Trên  cả  nước,  số  lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên  50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành  phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ  An  đạt  70-80%.  Việc  Zebu  hóa  đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên  25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song  chương  trình  chủ  yếu  triển  khai  ở những vùng có điều kiện thuận  lợi như đồng bằng, các vùng ven  đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc,  Tuyên Quang, số lượng tổng đàn  thấp  (lần  lượt  khoảng  105.200,  102.950,  21.220  con),  việc  chăn  nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia  đình,  chủ  yếu  là  giống  bò  vàng  địa phương (chiếm 80%) có khối  lượng  trưởng  thành  thấp,  sinh  trưởng  chậm,  khối  lượng  trung  bình con đực là 220-250 kg và con  cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ  khoảng 40-42% khối lượng sống.  Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù  các  địa  phương  này  đã  đầu  tư  cho công tác cải tạo đàn bò theo  hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí  còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu  đồng bộ và sự hiểu biết của đồng  bào các dân tộc thiểu số chưa cao  nên kết quả thu được còn hạn chế.  

(2) Mặc  dù  3  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc và Tuyên Quang đều thuộc  vùng trung du, miền núi, có điều  kiện  tự  nhiên  phù  hợp  cho  chăn  nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu,  bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn  theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi  quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ,  thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa  thu hút được sự quan tâm của các  doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc  dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho  bò vào mùa rét còn hạn chế, do  đó cứ đến mùa đông là hàng trăm  con trâu, bò ở các huyện vùng cao  bị chết đói, rét, gây thiệt hại không  nhỏ về kinh tế - xã hội.

(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề  chăn  nuôi  bò  tại  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  ở  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc,  Tuyên  Quang,  giúp khai thác hiệu quả tiềm năng  về điều kiện tự nhiên, nguồn lao  động  nhàn  rỗi  ở  địa  phương,  Bộ  KH&CN  đã  phê  duyệt  triển  khai  dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN  xây  dựng  mô  hình  nuôi  bò  thịt  ở  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  tại một số tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ  trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ  KH&CN  thúc  đẩy  phát  triển  kinh  tế  -  xã  hội  nông  thôn,  miền  núi,  vùng  dân  tộc  thiểu  số  giai  đoạn  2016-2025”  (Chương  trình  nông  thôn  miền  núi).  Dự  án  do  Viện  Chiến lược và Chính sách Dân tộc  chủ trì, cơ quan chuyển giao công  nghệ  là  Trung  tâm  Nghiên  cứu  Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn  nuôi,  Bộ  Nông  nghiệp  và  Phát  triển nông thôn). Qua hơn 2 năm  thực hiện, dự án đã chuyển giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  về  chăn  nuôi bò, giúp nâng cao năng suất,  chất lượng đàn bò của địa phương;  đồng thời tuyên truyền, tập huấn  làm thay đổi nhận thức của đồng  bào  từ  chăn  thả  sang  chăn  nuôi  công nghiệp theo hướng chủ động  thức ăn thô, xanh thông qua trồng  cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu  quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết  quả đạt được của dự án mở ra tiềm  năng  lớn  giúp  đảm  bảo  vệ  sinh  môi trường, giải quyết việc làm cho  vùng đồng bào dân tộc thiểu số,  góp phần từng bước đưa người dân  địa phương thoát nghèo, vươn lên  làm giàu trên chính mảnh đất quê  hương mình.

(4) Nhiều  điểm  sáng  về  áp  dụng  công  nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào  dân tộc thiểu số

Dự  án  đã  chuyển  giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  giúp  người  chăn  nuôi  ở  các  địa  phương  dần  thích  nghi và hướng tới tiếp cận với mô  hình phát triển đàn bò quy mô lớn  hơn, tập trung hơn. Cụ thể:

(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa  giống bò đực Brahman với bò cái  của địa phương thông qua 2 hình  thức:  sử  dụng  tinh  đông  lạnh  của  giống  bò  thuần  Brahman  đỏ  chất  lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho  bò cái địa phương ở một số khu vực  có  số  lượng  bò  cái  tương  đối  tập  trung và địa hình thuận tiện để tạo  “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử  dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ  phối giống trực tiếp với bò cái nền  của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được  đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm  nền phục vụ công tác cải tạo giống  sau  này,  giúp  cải  thiện  tầm  vóc,  tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò  trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ  lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với  giống bò địa phương.

(6) Bên  cạnh  phương  pháp  lai  tạo  giống được chuyển giao, dự án đã  hỗ  trợ  triển  khai  nhiều  tiến  bộ  kỹ  thuật  như:  chọn  bò  cái  làm  giống  có  tỷ  lệ  sinh  sản,  sinh  trưởng  tốt  hơn;  phát  hiện  bò  động  dục,  xác  định thời gian phối giống thích hợp  trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho  bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái  qua  các  giai  đoạn:  sơ  sinh,  tơ  lỡ,  chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con  ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò  mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ;  chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê,  bò đực theo từng giai đoạn đến lúc  bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy,  bò  thải  loại;  phòng  bệnh,  vệ  sinh  thú y... giúp mang lại hiệu quả cao  trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp  dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở  giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn  bị giết thịt không những giúp tăng  năng suất mà còn kiểm soát được  mức độ an toàn của sản phẩm cung  cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ  thuật rất mới đối với đồng bào dân  tộc thiểu số.

(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho  bò trong suốt quá trình nuôi, nhất  là  vào  mùa  rét,  dự  án  đã  hỗ  trợ  trồng và thâm canh giống cỏ VA06  năng suất cao, chất lượng phù hợp  với các huyện vùng dự án, nhờ đó  tạo được nguồn thức ăn xanh thô  chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả  công  tác  chuyển  dịch  cơ  cấu  cây  trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.  Đặc biệt, dự án còn áp dụng công  nghệ ủ chua để chế biến thức ăn,  giúp  tận  dụng  các  loại  phế,  phụ  phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân  cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra  công  thức  thức  ăn  tinh  từ  nguồn  nguyên liệu sẵn có tại địa phương.  Việc tạo được khẩu phần ăn có giá  trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp  tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả  chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ  môi trường do tận dụng một lượng  lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và  chế biến thải ra.

(8) Trong  công  tác  phòng,  chống  bệnh  tật  cho  bò,  bên  cạnh  việc  áp dụng các kỹ thuật về xây dựng  chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y,  xử lý chất thải, giúp chống gió lùa  vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm  môi trường trong khuôn viên hộ và  làng, bản..., dự án còn chuyển giao  cho  cán  bộ  kỹ  thuật  địa  phương  và người chăn nuôi các biện pháp  phòng,  chữa  bệnh  cho  bò  thông  qua việc sử dụng các loại vắcxin:  tụ huyết trùng, lở mồm long móng...  

(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được  10  kỹ  thuật  viên,  tập  huấn  cho  hơn 300 lượt người dân trong vùng  tiếp thu và làm chủ các quy trình  kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng  thành  công  mô  hình  nuôi  bò  sinh  sản với 240 bò cái  nền địa phương  và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman  đỏ.  Số  bê  sinh  ra  sau  đợt  phối  giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực  và 90 con cái (hiện có 216 bò cái  đang chửa sau đợt phối giống lần  2). Khối lượng sơ sinh của bê  ≥  22  kg (tăng 10-12% so với bê thường),  khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg,  khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130  kg,  dự  kiến  sau  24  tháng  tuổi  sẽ  đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây  dựng thành công mô hình trồng cỏ  voi lai VA06 thâm canh năng suất  cao, chất lượng tốt với diện tích 6  ha,  đạt  chỉ  tiêu  350  tấn/ha/năm,  dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra  6.300 tấn thức ăn thô xanh.

(10) Theo  tính  toán,  sau  khi  dự  án  kết thúc, các mô hình tập trung và  mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho  ra 366 con bê lai với trên 50% máu  bò Brahman. Trong số bê lai này,  những con cái sẽ tiếp tục được nuôi  phục vụ nhân giống chất lượng cao  cung  cấp  cho  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê  đực được nuôi và vỗ béo bán thịt  ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình  quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực  phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án  không chỉ nâng cao trình độ dân trí,  nhận thức về tầm quan trọng của  KH&CN cho người dân vùng cao,  mà còn giúp tăng thu nhập trên 1  đơn vị diện tích đất canh tác, góp  phần  chuyển  dịch  cơ  cấu  ngành  chăn  nuôi,  tạo  nguồn  thu  nhập  đáng  kể  cho  đồng  bào  vùng  dân  tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.  

(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Dự án xây  dựng mô hình trồng cỏ  voi lai VA06 đạt năng suất bao nhiêu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc

(1) Những  năm  gần  đây,  chương  trình  quốc  gia  về  cải  tạo  đàn  bò  nội bằng các giống bò Zebu như:  Brahman, Sahiwal, Droutmaster...  dần  được  quan  tâm  ở  nhiều  địa  phương trên cả nước, đặc biệt là  các tỉnh đồng bằng và duyên hải  miền  Trung.  Trên  cả  nước,  số  lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên  50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành  phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ  An  đạt  70-80%.  Việc  Zebu  hóa  đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên  25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song  chương  trình  chủ  yếu  triển  khai  ở những vùng có điều kiện thuận  lợi như đồng bằng, các vùng ven  đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc,  Tuyên Quang, số lượng tổng đàn  thấp  (lần  lượt  khoảng  105.200,  102.950,  21.220  con),  việc  chăn  nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia  đình,  chủ  yếu  là  giống  bò  vàng  địa phương (chiếm 80%) có khối  lượng  trưởng  thành  thấp,  sinh  trưởng  chậm,  khối  lượng  trung  bình con đực là 220-250 kg và con  cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ  khoảng 40-42% khối lượng sống.  Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù  các  địa  phương  này  đã  đầu  tư  cho công tác cải tạo đàn bò theo  hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí  còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu  đồng bộ và sự hiểu biết của đồng  bào các dân tộc thiểu số chưa cao  nên kết quả thu được còn hạn chế.  

(2) Mặc  dù  3  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc và Tuyên Quang đều thuộc  vùng trung du, miền núi, có điều  kiện  tự  nhiên  phù  hợp  cho  chăn  nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu,  bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn  theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi  quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ,  thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa  thu hút được sự quan tâm của các  doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc  dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho  bò vào mùa rét còn hạn chế, do  đó cứ đến mùa đông là hàng trăm  con trâu, bò ở các huyện vùng cao  bị chết đói, rét, gây thiệt hại không  nhỏ về kinh tế - xã hội.

(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề  chăn  nuôi  bò  tại  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  ở  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Vĩnh  Phúc,  Tuyên  Quang,  giúp khai thác hiệu quả tiềm năng  về điều kiện tự nhiên, nguồn lao  động  nhàn  rỗi  ở  địa  phương,  Bộ  KH&CN  đã  phê  duyệt  triển  khai  dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN  xây  dựng  mô  hình  nuôi  bò  thịt  ở  vùng  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  tại một số tỉnh Trung du, miền núi  phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ  trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ  KH&CN  thúc  đẩy  phát  triển  kinh  tế  -  xã  hội  nông  thôn,  miền  núi,  vùng  dân  tộc  thiểu  số  giai  đoạn  2016-2025”  (Chương  trình  nông  thôn  miền  núi).  Dự  án  do  Viện  Chiến lược và Chính sách Dân tộc  chủ trì, cơ quan chuyển giao công  nghệ  là  Trung  tâm  Nghiên  cứu  Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn  nuôi,  Bộ  Nông  nghiệp  và  Phát  triển nông thôn). Qua hơn 2 năm  thực hiện, dự án đã chuyển giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  về  chăn  nuôi bò, giúp nâng cao năng suất,  chất lượng đàn bò của địa phương;  đồng thời tuyên truyền, tập huấn  làm thay đổi nhận thức của đồng  bào  từ  chăn  thả  sang  chăn  nuôi  công nghiệp theo hướng chủ động  thức ăn thô, xanh thông qua trồng  cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu  quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết  quả đạt được của dự án mở ra tiềm  năng  lớn  giúp  đảm  bảo  vệ  sinh  môi trường, giải quyết việc làm cho  vùng đồng bào dân tộc thiểu số,  góp phần từng bước đưa người dân  địa phương thoát nghèo, vươn lên  làm giàu trên chính mảnh đất quê  hương mình.

(4) Nhiều  điểm  sáng  về  áp  dụng  công  nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào  dân tộc thiểu số

Dự  án  đã  chuyển  giao  nhiều  tiến  bộ  KH&CN  giúp  người  chăn  nuôi  ở  các  địa  phương  dần  thích  nghi và hướng tới tiếp cận với mô  hình phát triển đàn bò quy mô lớn  hơn, tập trung hơn. Cụ thể:

(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa  giống bò đực Brahman với bò cái  của địa phương thông qua 2 hình  thức:  sử  dụng  tinh  đông  lạnh  của  giống  bò  thuần  Brahman  đỏ  chất  lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho  bò cái địa phương ở một số khu vực  có  số  lượng  bò  cái  tương  đối  tập  trung và địa hình thuận tiện để tạo  “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử  dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ  phối giống trực tiếp với bò cái nền  của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được  đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm  nền phục vụ công tác cải tạo giống  sau  này,  giúp  cải  thiện  tầm  vóc,  tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò  trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ  lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với  giống bò địa phương.

(6) Bên  cạnh  phương  pháp  lai  tạo  giống được chuyển giao, dự án đã  hỗ  trợ  triển  khai  nhiều  tiến  bộ  kỹ  thuật  như:  chọn  bò  cái  làm  giống  có  tỷ  lệ  sinh  sản,  sinh  trưởng  tốt  hơn;  phát  hiện  bò  động  dục,  xác  định thời gian phối giống thích hợp  trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho  bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái  qua  các  giai  đoạn:  sơ  sinh,  tơ  lỡ,  chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con  ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò  mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ;  chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê,  bò đực theo từng giai đoạn đến lúc  bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy,  bò  thải  loại;  phòng  bệnh,  vệ  sinh  thú y... giúp mang lại hiệu quả cao  trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp  dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở  giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn  bị giết thịt không những giúp tăng  năng suất mà còn kiểm soát được  mức độ an toàn của sản phẩm cung  cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ  thuật rất mới đối với đồng bào dân  tộc thiểu số.

(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho  bò trong suốt quá trình nuôi, nhất  là  vào  mùa  rét,  dự  án  đã  hỗ  trợ  trồng và thâm canh giống cỏ VA06  năng suất cao, chất lượng phù hợp  với các huyện vùng dự án, nhờ đó  tạo được nguồn thức ăn xanh thô  chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả  công  tác  chuyển  dịch  cơ  cấu  cây  trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.  Đặc biệt, dự án còn áp dụng công  nghệ ủ chua để chế biến thức ăn,  giúp  tận  dụng  các  loại  phế,  phụ  phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân  cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra  công  thức  thức  ăn  tinh  từ  nguồn  nguyên liệu sẵn có tại địa phương.  Việc tạo được khẩu phần ăn có giá  trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp  tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả  chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ  môi trường do tận dụng một lượng  lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và  chế biến thải ra.

(8) Trong  công  tác  phòng,  chống  bệnh  tật  cho  bò,  bên  cạnh  việc  áp dụng các kỹ thuật về xây dựng  chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y,  xử lý chất thải, giúp chống gió lùa  vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm  môi trường trong khuôn viên hộ và  làng, bản..., dự án còn chuyển giao  cho  cán  bộ  kỹ  thuật  địa  phương  và người chăn nuôi các biện pháp  phòng,  chữa  bệnh  cho  bò  thông  qua việc sử dụng các loại vắcxin:  tụ huyết trùng, lở mồm long móng...  

(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được  10  kỹ  thuật  viên,  tập  huấn  cho  hơn 300 lượt người dân trong vùng  tiếp thu và làm chủ các quy trình  kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng  thành  công  mô  hình  nuôi  bò  sinh  sản với 240 bò cái  nền địa phương  và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman  đỏ.  Số  bê  sinh  ra  sau  đợt  phối  giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực  và 90 con cái (hiện có 216 bò cái  đang chửa sau đợt phối giống lần  2). Khối lượng sơ sinh của bê  ≥  22  kg (tăng 10-12% so với bê thường),  khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg,  khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130  kg,  dự  kiến  sau  24  tháng  tuổi  sẽ  đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây  dựng thành công mô hình trồng cỏ  voi lai VA06 thâm canh năng suất  cao, chất lượng tốt với diện tích 6  ha,  đạt  chỉ  tiêu  350  tấn/ha/năm,  dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra  6.300 tấn thức ăn thô xanh.

(10) Theo  tính  toán,  sau  khi  dự  án  kết thúc, các mô hình tập trung và  mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho  ra 366 con bê lai với trên 50% máu  bò Brahman. Trong số bê lai này,  những con cái sẽ tiếp tục được nuôi  phục vụ nhân giống chất lượng cao  cung  cấp  cho  các  tỉnh  Phú  Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê  đực được nuôi và vỗ béo bán thịt  ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình  quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực  phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án  không chỉ nâng cao trình độ dân trí,  nhận thức về tầm quan trọng của  KH&CN cho người dân vùng cao,  mà còn giúp tăng thu nhập trên 1  đơn vị diện tích đất canh tác, góp  phần  chuyển  dịch  cơ  cấu  ngành  chăn  nuôi,  tạo  nguồn  thu  nhập  đáng  kể  cho  đồng  bào  vùng  dân  tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ,  Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.  

(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Để đảm bảo nguồn thức ăn cho  bò trong suốt quá trình nuôi, nhất  là  vào  mùa  rét,  dự  án  đã  hỗ  trợ  trồng và thâm canh giống cỏ nào?