TOP 5 mẫu Phân tích Lính đảo hát tình ca (2024) SIÊU HAY

Phân tích Lính đảo hát tình ca lớp 10 Cánh diều gồm dàn ý và 5 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 10 hay hơn.

1 15752 lượt xem
Tải về


Phân tích Lính đảo hát tình ca

Đề bài: Hãy viết bài văn phân tích, đánh giá bài thơ Lính đảo hát tình ca (Trần Đăng Khoa).

Phân tích Lính đảo hát tình ca (mẫu 1)

Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (puskin). Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, là tiếng nói tình cảm là những rung động của trái tim con người trước cuộc đời. Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi chiều tà khuất lối? Ta rung động trước cánh hoa đẹp lung linh kiều diễm hay những cánh đồng lúa úa tàn không sinh khí? Thơ không chỉ là những đóa hoa cao sang kiều diễm mà thơ đôi khi là những cơn gió rít lên từng hồi, là những làn sóng dồn dập vỗ về bờ cát trắng hay chỉ là những con người chân phương hiện lên đầy chất phác đến đáng yêu. Là một làn gió không mấy xa lạ, nhưng sức sống mà nhà thơ ấy thổi vào đem đến một làn gió mới mẻ gợi những rung cảm sâu xa cho người đọc. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa là một “bài ca” như vậy.

Phân tích bài Lính đảo hát tình ca trên đảo học sinh giỏi kèm dàn ý

Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào biến chuyển lịch sử”_ John Perse. Như vậy dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn của cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết họ là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tinh tế nhất. Trần Đăng khoa đứng trong dòng chảy của thời đại để cất lên những vần thơ trong trẻo bình dị mang đến sức rung cảm mãnh liệt cho người đọc. Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sống với điều kiên khắc nghiệt… nhưng tâm hồn họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời hát của tự do của tâm hồn, bài hát của tình yêu tổ quốc tình yêu quê hương đất nước. Dù chưa biết “người thương” ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết “bóng dáng nào sẽ đến” với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.

“Đá san hô kê lên thành sân khấu

Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà

Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ

Chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa”

Trần Đăng Khoa được biết đến là nhà thơ viết nhiều về thiếu nhi và những sáng tác của ông dành nhiều cho thiếu nhi đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng của ông. Nhưng điều đó không có nghĩa là những sác tác của ông ở ngoài vùng sở trường lại mờ nhạt, nghèo nàn. Nếu ta đã quen với hình ảnh chú bộ đội cụ hồ xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hay những chàng thanh niên yêu nước đi theo tiếng gọi của tổ quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng hát chung khúc hát về người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn riêng, âm sắc riêng – thật mới mẻ và đặc sắc giữa cõi văn chương. Vẫn là những anh lính đảo sống giữa muôn trùng sóng nước thiếu thốn đủ bề mà luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho ta thấy về những buổi liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Người lính đâu chỉ có khô cằn cứng nhắc trong điều lệ, nội quy, họ cũng có lúc bay bổng, thăng hoa trong lời ca tiếng hát. Với tâm hồn lồng lộng biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã tự làm sinh động cho nhịp sống thường nhật buồn tẻ chốn hoang sơ củ mình bằng những giai điệu du dương, ngang tàng chất lính. Ta đã quen với một sân khấu với giàn âm thanh ánh sáng lộng lẫy, những vũ công diễn viên xinh đẹp thì ở nhưng người lính sân khấu của họ thật đặt biệt. Sân khấu của họ chẳng cầu kì như lẽ thường phải thế. Sân khấu của họ được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm bợ. Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ chẳng có tính nghệ thuật – những thứ vốn có sẵn trong cuộc sống thường ngày. Điều đó nói lên rất nhiều những thiếu thốn, gian khổ của người lính chốn biển đảo xa xôi. Đất nước mình những năm 80 còn khó khăn vất vả gấp bội phần. Những thiếu thốn ấy đã được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời phân trần của người lính, thì sự tạm bợ của họ không hẳn vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà vì: “chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa” thật dễ thông cảm biết bao với cái lí do bất khả kháng ấy. Đọc câu thơ này của ông ta chợt nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:

“ Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi..”

Những con người lạc quan luôn nhìn thấy trong khó khăn những điều thú vị như vật đó.

Qua sự phân trần của những người lính, người đọc mới hiểu hơn về một Trường Sa khắc nghiệt đến bội phần:

“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng

Sỏi cát bay như lũ chim hoang

Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu

Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Lời thơ như khắc họa trong tâm trí người đọc một trường sa đầy nắng và gió. Gió mang cảm giác bỏng rát trên mặt trần, gió tùng sỏi cát như lũ chim hoang, gió làm biến đổi hình dạng của đảo mỗi ngày… hai câu thơ giàu sức gợi mang đến những những cảm nhận có phần khá lạ lẫm trong lòng người đọc về thiên nhiên trường sa, bởi không phải ai cũng từng được trải nghiệm sức mạnh khủng khiếp của nắng gió nơi đây. Cuộc sống mỗi ngày phải đối diện với khó khăn, vất vả thế nhưng thật thú vị, người lính nói về đièu đó một cách thản nhiên, bình thản như đó là một phần hương vị của cuộc sống, không có gì đáng bận tâm. Họ không lấy điều đó làm phiền, ngược lại họ vẫn sống lạc quan yêu đời.

“Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu

Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Người lính bỏ lại tất cả sau lưng những khó khăn để vui sống mỗi ngày. Niềm vui ấy là cùng các chiến hữu cất cao lời hát, niềm vui ấy không cầu kì mà đậm chất lính. Sự phối hợp hài hòa đối lập nhau giữa hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt trong những câu thơ trên và tâm hồn phơi phới của những chàng lính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Trần đăng khoa đã mượn gian nan, khắc nghiệt của cuộc sống làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính. Cách nói mây nước mở màn của nhà thơ thật lạ, thật thú vị. Màn ở đây là màn sân khấu. Sân khấu dựng giữa đất trời mênh mông nên mấy nước mở màn là một liên tưởng độc đáo. Sân khấu ấy thiế phông màn vải vóc sặc sỡ, được thay bằng mây nước biển khơi.

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau

Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ

Là bà con xa với bụt ốc đây mà

Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh

Hóa ra là sư cụ hát tình ca”

Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không chỉ cản trờ người lính trong hoạt động nghệ thuật nữa mà còn khiến cho những người lính ấy phải cạo trọc đầu để chống chọi lại sự thiếu thốn ấy. Ở nơi biển đảo hẻo lánh ấy thứ còn quý hơn vàng có lẽ là nước ngọt. Một tài nguyên ta cho là tầm thường và hiện hữu quanh ta nên ta chẳng biết quý trọng. Chỉ khi ta đặt mình vào vị trí của những người lính ấy bốn bể đèo là cát trắng và nước biển mặn chát là gió rít từng hồi rát cả da thịt… ta mới hiểu được câu thơ “Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc” những anh chàng đầu trọc khiến ta liên tưởng tới những người lính đầu trọc trong tây tiến của Quang Dũng:

“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữu oai hùm…”

Đều là những khó khăn xuất phát từ hoàn cảnh, nhưng ý chí kiên cường của người lính có lẽ còn cứng rắn hơn bất kì thứ gì khác. Diễn viên và khán giả ở đây đều là những anh chàng “trọc đầu” trông thật tếu. Những người thanh niên ấy đã hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân của mình để bám trụ lại nơi địa cùng tổ quốc để giữ yên từng tấc đất nơi đây. Họ cũng như chúng ta, họ cũng biết làm đẹp cho bản thân chứ, ai lại muốn “đầu trọc” bao giờ, nhưng bởi vì nước ngọt ở đảo trường sa ấy còn khan hiếm lắm đâu chỉ dùng để tắm gội thôi đâu mà còn để uống để sinh hoạt nấu nướng.Điều kiện sống của những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa còn có quá nhiều thiếu thốn, gian khổ, đến mức khắc nghiệt. Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ở đây còn nhiều khó khăn: thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh, thiếu văn công và các hoạt động nghệ thuật. Nhưng, ở nơi đầu sóng ngọn gió, hàng ngày, thậm chí hàng giờ, những người lính canh biển luôn trong tư thế sẵn sàng. Không có sự yếu lòng trước những thử thách của cuộc sống. Khó khăn vất vả là vậy tình đồng chí đồng đội luôn thắp sáng và sưởi ấm con tim của những người cầm súng bảo vệ nơi đầu sóng. Họ biết yêu thương nhau, tạo niềm vui cho cuộc sống của mình. Họ cùng nhau lắng nghe khúc tình ca của biển cả, những cơn sóng ôm ấp chồng lên nhau tạo nên một giai điệu rất riêng mà có lẽ chỉ những người sống trên vùng đất này mới cảm nhận hết được vẻ đẹp này. Biển hiền hòa êm dịu, biển êm đềm khúc hát…. mãi mãi khúc tình ca. Con người và thiên nhiên hòa làm một, con người là trung tâm của vũ trũ và thiên nhiên là nền trời cho con người tỏa sáng. Khúc hát rì rầm ấy khi nghe người ta cũng chẳng biết được là trái tim của người lính đang thổn thức hay là lời thì thầm của biển cả.

Hơn bao giờ hết, bản tình ca này đặc biệt hơn thế:

“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…”

Đâu chỉ những nốt nhạc mới làm nên giai điệu, đôi khi chỉ là tiếng du dương rầm rì của sóng vỗ lao xao của gió biển lay đưa hàng dừa ….. chúng hòa trộn vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng đậm hương vị mặn mà của biển. Nói đến giai điệu, chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng nó sẽ là sự êm ả vui tai, nhẹ nhàng mà trầm lắng nhưng với Trần Đăng Khoa giai điệu được ví ngang tàng như sóng biển. Lời ca ấy không chỉ là yêu đời, một tinh thần lạc quan mà còn chứa đựng một nỗi nhớ và tình thương sâu nặng. Lời ca nào mà chẳng có tình yêu, huống chi đó là lời ca xuất phát từ con tim của người chiến sĩ. Làm nhiệm vụ xa nhà chắc hẳn các anh rất nhớ đất liền. Nhưng tạm gác lại nỗi nhớ nhiệm vụ mà các anh gánh vác trên vai còn cao cả hơn thế. Đêm buông xuống, màn nhung đen phủ kín bầu trời chẳng còn nhìn rõ được gì nữa. Chỉ có tiếng hát là vang vọng mãi biển xa. Tiếng vỏ ốc va vào nhau sau từng đợt sóng được nhà thơ nhân hóa lên thành vỏ ốc cất lời làm cho lời như sống dậy, sinh động hơn.

“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước”

Ở độ tuổi đẹp nhất đời người, đôi mươi sung sức có lẽ các anh chiến sĩ nơi đây cô đơn lắm vì chẳng ở gần người thương. Họ ao ước vào những đêm trăng sáng, được năm tay người mình yêu đi dạo, được ngắm nhìn khuôn mặt dịu dàng của em dưới ánh sáng lấp ló qua hàng cây… thật lung linh tuyệt đẹp. Nhưng khi mở mắt ra, mọi ao ước đều ảo mộng mơ phai, chỉ nghe bên tai tiếng sóng vỗ rì rào. Và tay mình lại nắm lấy chính tay mình. Khó khăn cô đơn là thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, họ vẫn mong chờ người mình yêu đang ở một nơi nào đó đợi mình. Người ấy ở đâu, như thế nào cũng chẳng biết nữa chỉ biết là khi mở mắt ra, bốn phía bao quanh mình đều là mây nước lồng lộng.

“Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…

Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

Dù ở hoàn cảnh nào, dù gặp khó khăn gì họ vẫn cất cao tiếng hát của tâm hồn, một tâm hồn cao cả và đa cảm. Dù chưa biết mai này mình sẽ yêu ai, chưa biết chủ nhân của bức thư tình là người nào nhưng các anh vẫn trung trinh một tấm lòng chung thủy. Lời hát cất lên như một lời thề son sắt, tình yêu vẫn còn trong tim dù là đứng trong đêm tối mịt mù tình yêu sẽ là ánh sáng dẫn đường , các anh vẫn sẽ ở đây, bảo vệ cho khoảng trời thân yêu này bởi Việt Nam bắt đầu tại nơi đây. Điệp lại cấu trúc thơ: “Nào hát lên; Rằng chúng ta, Rằng tình yêu”. Phép điệp cấu trúc giúp hai khổ thơ liên kết gần gũi, dễ đọc dễ nhớ giống đoạn điệp khúc của một bài hát.

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”

Khúc tình ca ấy vẫn mãi ngân vang, bỗng chừng lại như một bản nhạc đang cao trào lên quãng 8 thì trầm xuống đến lắng đọng lòng người. Cảm xúc thăng hoa của tác giả như gặp điều gì đó bỗng trầm lắng xuống. Ngoài mép biển kia có gì đáng để nhà thơ phân tâm. Kết thúc bài thơ là một câu cảm thán mang ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc. Họ hi sinh thầm lặng, gạt bỏ những nỗi lòng riêng để cùng phục vụ cho một mục đích cao cả hơn hết đó chính là sự yên bình của đất nước nơi đầu sóng ngọn gió.

Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh đối lập khá lạ. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là một bài ca hùng tráng về người chiến sĩ hải quân ở Trường Sa. Qua vài nét phác họa đơn sơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ta có thể cảm nhận được những khó khăn, vất vả, thiếu thốn của người lính nơi biển đảo xa xôi ấy cũng như vẻ đẹp của tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ. Tình cảm ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc một cách tự nhiên, chân thành.

Phân tích Lính đảo hát tình ca (mẫu 2)

Một loạt bài thơ của Trần Đăng Khoa viết về biển đảo và người lính được bạn đọc hoan nghênh đón nhận như: Tự tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài,... và đây là thi phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo. Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa. Nhờ đó, tác phẩm neo vào lòng người sâu sắc, bền chặt suốt mấy chục năm qua.

Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Cái sân khấu dựng lên giữa trời biển bao la ấy phải kì công và độc đáo lắm mới chịu nổi cái gió như quăng quật, tấp táp vào mặt con người. Sân khấu kê lên từ đá san hô biển, cánh gà phải dựng bằng tôn, tất cả đều tạm bợ thế thôi, vì không có phông màn nào chịu nổi thông thốc của gió trời biển đảo:

Đá san hô kê lên thành sân khấu

Vài tấm tôn chôn máy cánh gà

Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ

Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa.

Nhưng sự thú vị nhất lại nằm ở khổ thơ thứ hai. Ở đây có sự đối lập giữa cái khắc nghiệt của thiên nhiên và sự dũng cảm, lạc quan của người lính. “Gió rát mặt”, “sỏi cát bay như lũ chim hoang”, thuỷ triều xuống lên liên tục khiến cho đảo cũng thay hình đổi dạng không ngừng. Quả là một vùng đất đầy gian nan, thử thách đối với người lính. Tuy vậy, người lính vẫn hiên ngang, lãng mạn và hào sảng:

Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng

Sỏi cát bay như lũ chim hoang

Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu

Ta bắt đầu thôi. Máy nước đã mở màn...

Từ “mây nước mở màn”, hình tượng người lính đảo hiện lên thật độc đáo, tếu táo qua hình dáng bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn, nhờ đó đã giúp cho Trần Đăng Khoa có được một giọng thơ hóm hỉnh, bông đùa nhưng tạo được cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, thành ra người lính cũng phải chấp nhận để thích nghỉ với môi trường. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”. Đọc đến đây, hẳn chúng ta không thể quên hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, cũng tếu táo và có vẻ “bặm trợn” khác thường giữa cuộc sống núi rừng miền Tây Bắc khắc nghiệt: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm”:

Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau.

Họ gọi đùa nhau là “sư cụ”, là “bà con xa với bụt ốc”, thế hoá thành vui nhộn vì cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mới đưa duyên và “sóng sánh” làm sao! Quả vậy, chính cuộc sống gian nan giữa nước trời thăm thẳm ấy, hình tượng người lính Trường Sa hiện lên thật lãng mạn và hào hoa. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng: Khát khao một tình yêu chảy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thuỷ thiết tha.

Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kì lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”. Có lẽ chính những năm tháng sống cùng đồng đội nơi biển cả bạc trùng, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc giúp Trần Đăng Khoa có được chất liệu hiện thực chân thật và sâu sắc đến thế. Đọc thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống người lính Trường Sa mà còn để trái tim mình cảm thông và rưng rưng xúc động. Chính cái giọng phớt đời, tưng tửng lại là chỗ xót xa và lấy nhiều nước mắt của người đọc:

Cái giai điệu ngang tàng như gió biển

Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi

Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa

Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời...

Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo

Gương mặt em dịu dàng

Hàng cây cũng tươi xinh

Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ

Và tay mình lại nắm lấy tay mình.

Hóm hỉnh nhất là khổ thơ với các câu hỏi tu từ tự vấn về người yêu của người lính đảo. Họ hát tình ca, yêu đắm say và nhớ thương tha thiết chỉ qua tưởng tượng, thành ra họ hình dung về người yêu của mình cũng có năm bảy đường khác biệt. “Các em ở phương nào?”, “Các em cao hay thấp?” Xót xa nhất là bóng dáng nào sẽ đến với các anh như một câu hỏi xoáy sâu vào lặng lẽ, vào thăm thẳm ruột gan mong chờ khao khát mỗi khi đêm về trông ra chỉ bốn bề mây nước âm u:

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?

Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được

Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?

Trông bốn phía chỉ âm u mây nước.

Lãng mạn, hào hoa là thế, nhưng chất lính, sự kiên cường và dấn thân của người lính mới chính là vẻ đẹp cao cả về lòng yêu nước. Hát tình ca để khẳng định tình yêu thuỷ chung, khẳng định chủ quyền đất nước. Nhà thơ không nói hết, nhưng đó là tiếng nói phản kháng chiến tranh, là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Cao hơn, hình tượng người lính đứng giữa trời nước bao la bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cho Tổ quốc chính là trách nhiệm lớn lao, thiêng liêng không gì sánh được:

Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngục ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này.

Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thuỷ triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay:

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế

Ô, hoá ra toàn những đá trọc đầu....

Phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo hay nhất

Phân tích Lính đảo hát tình ca (mẫu 3)

Nếu nói những con chữ là tinh hoa nghệ thuật thì những thi nhân chĩnh là những nhà nghệ sĩ. Họ dùng con chữ để vẽ ra những bức tranh tuyệt đẹp. Trần Đăng Khoa chính là một nghệ nhân như vậy. Qua bài thơ Lính đảo hát bài ca trên đảo, những cảnh vật, con người xuất hiện lung linh. Vẻ đẹp ấy càng tôn lên được ý nghĩa của việc họ đang làm, của nhiệm vụ thiêng liêng canh giữ nói đất đảo. Hình ảnh của những người lính được ông khai thác dưới một góc nhìn vừa thơ mộng, vừa thể hiện được hết sự khó khăn của cuộc sống nơi hải đảo xa xôi.

“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng

Sỏi cát bay như lũ chim hoang

Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu

Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Ngay đoạn mở đầu, người đọc đã thấy được hết những cái khắc nghiệt của hải đảo. Nơi đây chỉ thấy nắng và gió, đảo theo dòng nước mà luôn thay đổi hình dáng. Trên nền khung cảnh tưởng chừng như chẳng thấy điểm cuối ấy, chim hoang vẫy cánh làm cảnh vật càng thêm tiêu điều. Mỗi ngày, cuộc sống con người nơi đây đều phải chịu sự vất vả ấy. Nhưng chính do đó, họ dần quen thuộc và bình thản trước những sóng gió ấy. Trên nền cảnh vật xơ xác, sự mãnh liệt và quyết tâm của những người lính làm sáng lên cả bức tranh chỉ toàn gam màu vàng và xanh. Họ lạc quan, cổ vũ nhau tiến bước về phía trước mặc cho sự vất vả vây quanh. Với họ, có lẽ chỉ cần có “chiến hữu” thì chẳng còn khó khăn mà chỉ có niềm vui và những điều thú vị. Hình ảnh so sánh mây nước như một buổi biểu diễn, màn ấy là một sân khấu lơ lửng giữa đất trời. Đó là một cách liên tưởng vô cùng độc đáo và thú vị của tác giả.

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau

Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ

Là bà con xa với bụt ốc đây mà

Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh

Hóa ra là sư cụ hát tình ca”

Những câu thơ tiếp theo đây vẫn là hình ảnh khắc nghiệt của thiên nhiên vùng hải đảo. Không chỉ gò cát làm hoạt động những người lính khó khăn, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của họ. Những người lính hiện lên với hình ảnh ai nấy đều trọc đầu, kể cả già trẻ đều như nhau. Đó chính là do họ tự cạo hết tóc của mình để tránh dùng nhiều nước trong khi vệ sinh cá nhân. Bởi nơi đây, thứ hiếm hoi và cần tiết kiệm nhất chính là nước ngọt. Quanh đảo đều là nước, nhưng đó đều là nước biển mặn chát không thể sử dụng được. Thứ những người đất liền chúng ta không coi trọng, lại được những con người ở đó quý trọng đến từng giọt nhỏ. Để làm dịu đi bầu không khí nặng nề ấy, tác giả đã sử dụng những ngôn ngữ, hình ảnh hài hước. Đó là câu nói những người lính đầu trọc trông thật “tếu” và đùa vui so sánh họ với hình ảnh “sư cụ”. Sự đoàn kết của những người lính không chỉ còn là đồng chí, họ là những người anh em cũng chung hoạn nạn, là những người như một gia đình. Và cuối đoạn, bài ca ngân lên với giai điệu nhẹ nhàng như sóng biển. Đó chính là sự quyến rũ khi người và vật hòa quện vào nhau, khi thiên nhiên đàn, biển tấu và con người ngân nga khúc tình ca.

“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển

Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi

Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa

Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…

Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo

Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh

Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ

Và tay mình lại nắm lấy tay mình

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?

Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được

Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?

Trông bốn phía chỉ âm u mây nước

Nào hát lên cho mấy nước biết

Rằng chúng ta là những con người

Yêu em thủy chung hơn muối mặn

Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…

Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

Giọng hát như con người, những người lính cất giọng được miêu tả là ngang tàng,đúng chất những người chiến sĩ. Tuy nhiên giai điệu họ đang ngâm lại là những khúc tình ca lãng mạn toàn nhớ với thương. Lời ca ấy thể hiện sự yêu đời, lạc quan, cũng là niềm khao khát về một tình yêu của những người lính trẻ. Trong đêm ấy, tạm bỏ hết những gánh nặng trên vai, họ cũng chỉ là những chàng trai qua đôi mươi đầy khao khát, mong chờ. Những hình ảnh tiếp theo là sự ao ước về một viễn cảnh hạnh phúc. Rời xa hiện thực, mọi người như chìm vào đó với biển đảo, những sự vật nơi đất biển. Hai câu thơ cuối, “Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này” như một lời tuyên thệ. Họ sẽ vẫn đứng đó để bảo vệ từng tấc đất. Bởi sự hòa bình, một đất nước toàn vẹn cũng là khởi đầu từ sự yên bình nơi hải đảo xa xôi.

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế

Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”

Sau đoạn ngân lên đầy những cảm xúc, tác giả cũng thăng hoa trong những con chữ bay bổng. Bỗng “bàng hoàng” nhìn lại, như có gì kích động tác giả. Hóa ra đó là những “đầu trọc” của đồng đội, như đưa mọi người về lại hiện thực và trách nhiêm của mình. Tuy nhiên, khi đọc đến đây, người đọc lại chẳng cảm nhận được sự khó chịu của những người lính. Họ cam tâm làm tất cả vì Tổ Quốc thân yêu.

Với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng lại như một bài ca du dương, Trần Đăng Khoa còn sử dụng rất nhiều từ gợi hình để làm người đọc hiểu rõ thêm về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi. Đó là những con người vừa dũng cảm, vừa mang trong mình tinh thần và tình yêu tha thiết. Cách trang giấy mà ta vẫn có thể hình dung được những người ấy, đẹp đẽ và nên thơ đến vậy!

Phân tích Lính đảo hát tình ca (mẫu 4)

Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sân khấu xếp bằng đá san hô, cánh gà chôn bằng mấy tấm tôn, ca sĩ toàn là những anh chàng đầu trọc (họ phải cạo trọc đầu để tiết kiệm nước ngọt vệ sinh)... nhưng tâm hồn của họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời ca tiếng hát, những tiếng hát ngang tàng, toàn nhớ với thương. Dù chưa biết "người thương" ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết "bóng dáng nào sẽ đến" với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.

Dàn ý phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo

Phân tích Lính đảo hát tình ca (mẫu 5)

Lính đảo hát tình ca trên đảo của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay, để lại ấn tượng sâu sắc từ khi ra đời cho đến nay. Từ cầu tứ, hình ảnh, giọng điệu, tất cả đọc lên cứ vừa tếu táo, bông đùa nhưng lại cảm thương sâu sắc về cuộc đời người lính biển. Họ trở thành tượng đài bất khuất giữa trùng khơi, như một minh chứng cho lòng quả cảm, sự kiên cường của một dân tộc chưa bao giờ khuất phục, sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tình ca và hùng ca, hóm hỉnh và lắng đọng, trần trụi và đầy suy tư,... là những trạng thái cảm xúc hài hoà, gắn kết xuyên suốt bài thơ [...] Qua đó, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu biển đảo đối với thế hệ trẻ, nhất là ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của người lính biển trong vai trò bảo vệ chủ quyền đất nước trong giai đoạn hiện nay.”.

1 15752 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: